Home » Documents » BÁO CÁO Nghiên cứu nhu cầu gỗ nguyên liệu cho chế biến gỗ, sản phẩm gỗ xuất khẩu sang thị trường Châu Âu trong bối cảnh thực hiện Hiệp định EVFTA và thực thi cam kết VPAVous êtes ici:  
BÁO CÁO Nghiên cứu nhu cầu gỗ nguyên liệu cho chế biến gỗ, sản phẩm gỗ xuất khẩu sang thị trường Châu Âu trong bối cảnh thực hiện Hiệp định EVFTA và thực thi cam kết VPA
Par: Centre for Sustainable Rural Development l Hanoi
Publié: septembre 20, 2022
Pays: Autre
Sujets: - Autre -
Type de document: Rapport
Document ID: 9346
Nombre de vues: 3107
Envoyer ce document par email
BÁO CÁO Nghiên cứu nhu cầu gỗ nguyên liệu cho chế biến gỗ, sản phẩm gỗ xuất khẩu sang thị trường Châu Âu trong bối cảnh thực hiện Hiệp định EVFTA và thực thi cam kết VPA

 

 

 

 

BÁO CÁO

Nghiên cứu nhu cầu gỗ nguyên liệu cho chế biến gỗ, sản phẩm gỗ xuất khẩu sang thị trường Châu Âu trong bối cảnh thực hiện Hiệp định EVFTA và thực thi cam kết VPA

 

Nhóm nghiên cứu:

  • TS. Nguyễn Bá Ngãi – Trưởng nhóm
  • Tống Thị Phượng
  • Trần Thị Hải Yến
  • Trần Ngọc Thể
  • Vũ Xuân Thôn
  • Trần Huy Lê

 

 

 

 

Hà Nội, ngày 24 tháng 8 năm 2022

MỤC LỤC

DANH MỤC HÌNH.. 5

DANH MỤC BẢNG.. 7

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.. 8

TÓM TẮT.. 9

PHẦN I: VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.. 12

PHẦN II: MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.. 14

1.1.      Mục tiêu nghiên cứu. 14

1.2.      Đối tượng nghiên cứu. 14

1.3.      Nội dung nghiên cứu. 14

1.4.      Phương pháp nghiên cứu. 14

1.4.1.  Thu thập, tổng hợp và phân tích tài liệu thứ cấp. 14

1.4.2.  Chọn điểm nghiên cứu. 15

1.4.3.  Phương pháp điều tra doanh nghiệp chế biến G&SPG.. 15

1.4.4.  Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu. 16

1.4.5.  Phương pháp chuyên gia. 16

PHẦN III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.. 17

  1. Tình hình chung về chế biến G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU.. 17

1.1.      Trên phạm vi cả nước. 17

1.2.      Thực tế từ các doanh nghiệp được điều tra. 18

1.2.1.  Tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường EU của các doanh nghiệp. 18

1.2.2.  Sản phẩm và giá trị xuất khẩu sang thị trường EU.. 19

1.3.      Một số phát hiện chính. 23

  1. Nguyên liệu cho chế biến G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU 23

2.1.      Nguyên liệu nhập khẩu. 23

2.1.1.  Tình hình chung. 23

2.1.2.  Gỗ tròn, gỗ xẻ nhập khẩu. 24

2.1.3.  Ván nhập khẩu. 29

2.1.4.  Một số phát hiện chính về gỗ nguyên liệu nhập khẩu. 32

2.2.      Gỗ nguyên liệu trong nước. 32

2.2.1.  Tình hình chung. 32

2.2.2.  Gỗ tròn, gỗ xẻ trong nước. 34

2.2.3.  Ván nguyên liệu trong nước. 41

2.2.4.  Một số phát hiện chính về gỗ nguyên liệu trong nước. 42

  1. Dự báo nhu cầu gỗ nguyên liệu cho chế biến G&SPG xuất khẩu giai đoạn 2022-2030. 43

3.1.      Nhu cầu về số lượng. 43

3.2.      Nhu cầu về loại gỗ, chất lượng, tính hợp pháp của nguyên liệu. 48

3.3.      Một số kết luận về nhu cầu gỗ nguyên liệu cho chế biến G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU.. 49

  1. Chính sách ưu đãi, hỗ trợ chế biến G&SPG xuất khẩu. 50

4.1.      Các chính sách ưu đãi, hỗ trợ các doanh nghiệp chế G&SPG.. 50

4.1.1.  Chính sách đất đai 50

4.1.2.  Chính sách tín dụng. 51

4.1.3.  Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. 51

4.1.4.  Chính sách phát triển năng lực sản xuất 52

4.1.5.  Chính sách phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm.. 52

4.1.6.  Chính sách thuế xuất khẩu G&SPG.. 53

4.2.      Tình hình thực hiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp chế biến G&SPG.. 53

4.2.1.  Sự quan tâm và hưởng thụ các chính sách ưu đãi, hỗ trợ. 53

4.2.2.  Những bất cập, khó khăn khi thực hiện các chính sách. 54

4.3.      Nhu cầu đổi mới chính sách thúc đẩy các doanh nghiệp từng bước giảm sử dụng gỗ nhập khẩu, tăng sử dụng gỗ rừng trồng trong nước cho chế biến G&SPG xuất khẩu. 59

4.4.      Một số phát hiện chính về chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp chế biến G&SPG xuất khẩu. 60

  1. Đề xuất giải pháp và khuyến nghị chính sách. 61

5.1.      Giải pháp đối với gỗ nguyên liệu cho chế biến  G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU.. 61

5.1.1.  Nhóm giải pháp quản lý có hiệu quả nguồn nguyên liệu. 61

5.1.2.  Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng nguyên liệu trong nước. 61

5.1.3.  Nhóm giải pháp cải tiến kỹ thuật, trình độ sản xuất 62

5.2.      Khuyến nghị định hướng chính sách ưu đãi, hỗ trợ chế biến G&SPG   62

5.2.1.  Đối với các chính sách liên quan đến tiền sử dụng đất 62

5.2.2.  Đối với các chính sách về hạ tầng, tín dụng và thị trường. 62

5.2.3.  Đối với chính sách về phát triển năng lực sản xuất 63

PHẦN IV: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ. 64

  1. Kết luận. 64
  2. Kiến nghị 65

TÀI LIỆU THAM KHẢO.. 66

PHẦN PHỤ LỤC.. 68

Phục lục 01: PHIẾU PHỎNG VẤN NHU CẦU GỖ NGUYÊN LIỆU CHO CHẾ BIẾN G&SPG XUẤT KHẨU (dùng để gửi tới 130  Công ty chế biến lâm sản) 68

Phụ lục 02: BẢNG PHỎNG VẤN BÁN ĐỊNH HƯỚNG (dùng cho phỏng vấn tại 16 Công ty chế biến lâm sản) 68

Phụ lục 03: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH SỐ LIỆU.. 68

Phụ lục 04:       DANG SÁCH 46 DOANH NGHIỆP TRẢ LỜI PHIẾU PHỎNG VẤN (để lưu không công bố do cam kết với công ty) 68

Phụ lục 05: DANH SÁCH 16 DOANH NGHIỆP PHỎNG VẤN SÂU (để lưu không công bố do cam kết với công ty) 68

 

 

 

DANH MỤC HÌNH

Hình 1: Biểu đồ diễn biến số lượng doanh nghiệp chế biến gỗ và lâm sản giai đoạn 2016-2020. 17

Hình 2: Tỷ trọng xuất khẩu G&SPG sang thị trường EU của doanh nghiệp. 18

Hình 3: Cơ cấu loại hình sản phẩm của doanh nghiệp điều tra. 19

Hình 4: Quy mô doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm khác. 22

Hình 5: Cơ cấu giá trị xuất khẩu sản phẩm khác (dăm gỗ, viên nén, …) sang thị trường EU.. 22

Hình 6: Tỷ lệ doanh nghiệp chế biến G&SPG sử dụng nguyên liệu nhập khẩu. 24

Hình 7: Tỷ lệ sử dụng gỗ nguyên liệu nhập khẩu cho sản xuất sản phẩm xuất khẩu sang thị trường EU.. 26

Hình 8: Loại gỗ nhập khẩu. 26

Hình 9: Loại gỗ bắt buộc phải nhập vì không có nguyên liệu thay thế. 27

Hình 10: Đánh giá lợi thế của gỗ nguyên liệu nhập khẩu. 29

Hình 11: Tỷ lệ nhập khẩu ván theo các năm.. 29

Hình 12: Tổng lượng ván nhập khẩu theo năm.. 30

Hình 13: Xu hướng lượng nguyên liệu ván nhập khẩu theo giá trị lớn nhất (max) 30

Hình 14: Loại ván nhập khẩu chủ yếu. 31

Hình 15: Đánh giá chất lượng ván nhập khẩu. 32

Hình 16: Nguyên liệu trong nước giai đoạn 2017-2021. 33

Hình 17: Tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu trong nước. 34

Hình 18: Lượng nguyên liệu gỗ tròn gỗ xẻ trong nước sử dụng bình quân theo các năm.. 35

Hình 19: Nhu cầu gỗ nguyên liệu trong nước trong 3 năm (2019-2021) 35

Hình 20: Cơ cấu loại nguyên liệu trong nước sử dụng sản xuất G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU.. 36

Hình 21: Tỷ lệ sử dụng loại nguyên liệu trong nước sản xuất G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU.. 37

Hình 22: Đánh giá loại nguyên liệu trong nước có thể thay thế cho nguyên liệu nhập khâủ. 37

Hình 23: Vùng gỗ nguyên liệu trong nước được các doanh nghiệp mua gỗ nguyên liệu. 38

Hình 24: Đánh giá lợi thế của gỗ nguyên liệu trong nước. 39

Hình 25: Đánh giá bất lợi của gỗ nguyên liệu trong nước. 40

Hình 26: Tỷ lệ sử dụng nguyên liệu ván trong nước theo các năm.. 41

Hình 27: Lượng nguyên liệu ván trong nước sử dụng theo các năm.. 42

Hình 28: Giá trị xuất khẩu G&SPG giai đoạn 2017-2021 và dự báo tăng trưởng giá trị xuất khẩu giai đoạn 2022-2030. 44

Hình 29: Phân tích tương quan giữa lượng nguyên liệu và giá trị xuất khẩu. 45

Hình 30: Dự báo giá trị xuất khẩu sang thị trường EU của doanh nghiệp khảo sát 47

Hình 31: Nhu cầu về loại gỗ nguyên liệu sử dụng. 49

Hình 32: Biểu đồ về tình hình hưởng thụ các chính sách của doanh nghiệp. 53

Hình 33: Những bất cập, khó khăn của việc thực hiện chính sách miễn, giảm tiền sử dụng đất 54

Hình 34: Những bất cập, khó khăn của việc thực hiện chính sách hỗ trợ vay tín dụng. 55

Hình 35: Những bất cập, khó khăn của việc thực hiện chính hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng. 56

Hình 36: Những bất cập, khó khăn của việc thực hiện chính hỗ trợ phát triển năng lực sản xuất 57

Hình 37: Những bất cập, khó khăn của việc thực hiện chính sách phát triển thị trường. 58

Hình 38: Đề xuất chính sách để thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu gỗ từ rừng trồng trong nước. 60


 

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1: Phân bố doanh nghiệp trả lời và phỏng vấn trực tiếp theo tỉnh. 16

Bảng 2: Biến động giá trị xuất khẩu sản phẩm nội thất trong 3 năm của các doanh nghiệp. 20

Bảng 3: Biến động giá trị xuất khẩu sản phẩm ngoại thất trong 3 năm của các doanh nghiệp chế biến. 20

Bảng 4: Biến động giá trị xuất khẩu sản phẩm ván nhân tạo trong 3 năm của các doanh nghiệp. 21

Bảng 5: Biến động tỷ lệ nhập khẩu gỗ nguyên liệu trong 3 năm của các doanh nghiệp chế biến. 24

Bảng 6: Chỉ tiêu đánh giá chất lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu. 27

Bảng 7: Biến động tỷ lệ sử dụng gỗ nguyên liệu trong nước trong 3 năm của các doanh nghiệp chế biến. 34

Bảng 8: Giá trị xuất khẩu G&SPG giai đoạn 2017-2021 và dự báo tăng trưởng giá trị xuất khẩu giai đoạn 2022-2030. 43

Bảng 9: Nguồn cung gỗ nguyên liệu giai đoạn 2017-2021. 45

Bảng 10: Dự báo nhu cầu nguyên liệu giai đoạn 2022-2030. 46

Bảng 11: Giá trị xuất khẩu G&SPG giai đoạn 2017-2021. 46

Bảng 12: Dự báo nhu cầu gỗ nguyên liệu sản xuất G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU giai đoạn 2022-2030. 48

Bảng 13: Tổng hợp kết quả đánh giá thực hiện chính sách thuế xuất khẩu của các mặt hàng G&SPG chủ yếu. 58


 

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

 

Bộ NN&PTNT Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
BIFA Hiệp hội chế biến gỗ Bình Dương
CBG&LS Chế biến gỗ và lâm sản
EU Liên minh châu Âu
EVFTA Hiệp định tự do thương mại Việt Nam-Liên minh châu Âu
FPA Bình Định Hiệp hội gỗ và lâm sản Bình Định
FSC Forest Stewardship Council – Hệ thống các tiêu chuẩn về chứng nhận nguồn gốc gỗ cho các nhà khai thác.
G&SPG Gỗ và sản phẩm gỗ
HAWA

KCN

Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP. HCM

Khu công nghiệp

PEFC Programme for the Endorsement of Forest Certification- Hệ thống chứng chỉ quản lý rừng bền vững
REACH Đăng ký (Registration), Đánh giá (Evaluation), Cấp phép (Authorisation) và Hạn chế các Hóa chất (Restriction of Chemical substances)
SSI Phương pháp phỏng vấn bán định hướng
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
USD Đô la Mỹ
VIFOREST Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam

                                  

 

 

 

 

 

 

TÓM TẮT

1) Nghiên cứu nhu cầu gỗ nguyên liệu cho chế biến gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu sang thị trường Châu Âu đáp ứng yêu cầu Hiệp định EVFTA và thực thi cam kết VPA nhằm mục tiêu:  i) Phân tích tình hình sử dụng gỗ nguyên liệu và dự báo nhu cầu gỗ nguyên liệu cho chế biến G&SPG xuất khẩu sang thị trường châu Âu trong giai đoạn 2022-2030; ii) Phân tích tình hình thực hiện chính sách và khuyến nghị định hướng chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp chế biến từng bước giảm sử dụng gỗ nhập khẩu, tăng sử dụng gỗ rừng trồng trong nước để chế biến xuất khẩu G&SPG sang thị trường châu Âu. Nội dung nghiên cứu tập trung vào: i) Đánh giá thực trạng, dự báo nhu cầu gỗ nguyên liệu cho chế biến gỗ và đồ gỗ xuất khẩu sang thị trường EU và các giải pháp; ii) Tổng quan, đánh giá tình hình thực hiện chính sách và khuyến nghị định hướng chính sách ưu đãi, hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến từng bước giảm gỗ nguyên liệu nhập khẩu, tăng sử dụng gỗ rừng trồng trong nước.

2) Nghiên cứu đã thu thập, tổng hợp và phân tích tài liệu thứ cấp; lựa chọn 03 vùng đại diện cho 03 miền (miền Bắc, miền Trung và miền Nam). Tại mỗi vùng chọn một số địa phương (tỉnh) làm điểm nghiên cứu; điều tra 46 doanh nghiệp bằng bảng hỏi; phỏng vấn sâu 16 cơ sở chế biến. Số liệu phỏng vấn được trích xuất từ phần mềm KoboToolbox qua phần mềm MS. Excel đã được rà soát, làm sạch, mã hoá…; Sử dụng phần mềm IBM SPSS Statistics 22 để phân tích các chỉ tiêu thống kê mô tả, biểu đồ hoá và thăm dò các mối quan hệ (nếu có). Nghiên cứu đã tiếp thu góp ý của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý tại 03 cuộc họp kỹ thuật và 01 hội thảo.

3) Kết quả nghiên cứu xác định được 5 nhóm sản phẩm xuất khẩu chính gồm: đồ gỗ nội thất, đồ gỗ ngoại thất, các loại ván nhân tạo, gỗ xây dựng và viên nén gỗ, ván sàn. Trong đó đồ gỗ nội, ngoại thất chiếm trên 83% (đồ gỗ nội thất 53% và đồ gỗ ngoại thất 30%). Nghiên cứu có một số phát hiện chính đó là: i) Giá trị xuất khẩu G&SPG hàng năm của Việt Nam sang thị trường EU trong thời gian qua chiếm khoảng 8% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước; ii) Số lượng doanh nghiệp xuất khẩu G&SPG sang thị trường EU chiếm tỷ trọng thấp trong tổng số doanh nghiệp chế biến G&SPG có hoạt động xuất khẩu; iii) Nhóm mặt hàng G&SPG của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU chủ yếu là đồ gỗ nội, ngoại thất. Nhóm sản phẩm này có yêu cầu nguyên liệu gỗ đặc thù, một số sản phẩm bắt buộc phải nhập nguyên liệu gỗ từ EU; iv) G&SPG xuất sang EU có yêu cầu cao về truy xuất nguồn gốc gỗ hợp pháp và đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng, an toàn cho người sử dụng.

4) Kết quả nghiên cứu cho thấy 87% số doanh nghiệp sử dụng gỗ nhập khẩu để sản xuất các mặt hàng G&SPG xuất khẩu và chỉ có 13% số doanh nghiệp không sử dụng nguyên liệu gỗ nhập khẩu. Các doanh nghiệp chủ yếu sử dụng gỗ tròn, gỗ xẻ, ván nhân tạo nhập khẩu để sản xuất, chế biến G&SPG xuất khẩu vào thị trường EU. Xác định được 09 loại gỗ được nhập khẩu vào Việt Nam (gỗ các loại như keo, bạch đàn, tếch, tần bì, óc chó, sồi trắng, sồi đỏ, dương, dẻ gai) và đánh giá lợi thế và tồn tại, hạn chế của gỗ nhập khẩu. Nghiên cứu đã phát hiện ra một số điểm quan trọng: i) Lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu dùng cho sản xuất các sản phẩm xuất khẩu sang EU chiếm tỷ lệ khoảng 37% tổng lượng nguyên liệu của doanh nghiệp; ii) Lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu không nhiều, chủ yếu và gỗ tròn, gỗ xẻ và ván MDF theo đơn hàng của EU; iii) Yêu cầu chất lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu ngày càng cao so với gỗ trong nước, yêu cầu 100% gỗ có chứng chỉ quốc tế FSC, PEFC cũng như thực hiện các quy định của Hiệp định đã ký; iv) Giá vận chuyển nguyên liệu nhập khẩu có xu hướng tăng do tác động của lạm phát, giá xăng dầu và xung đột quân sự ở một số khu vực.

5) Kết quả nghiên cứu về nguyên liệu gỗ trong nước cho thấy: 90% doanh nghiệp có sử dụng nguyên liệu gỗ trong nước; 10% doanh nghiệp không sử dụng nguyên liệu gỗ trong nước; xác định được các loại gỗ trong nước chủ yếu gồm: keo chiếm 37%, tràm chiếm 21%, cao su 16%, các loại gỗ khác (bạch đàn, thông, tếch..) khoảng 26%, và nguồn nguyên liệu từ các loại ván nhân tạo sản xuất trong nước; xác định vùng nguyên liệu chính (Bắc, Trung, Nam) và phân tích lợi thế, bất lợi của gỗ nguyên liệu trong nước. Nghiên cứu cũng phát hiện một số điểm quan trong về nguyên liệu gỗ trong nước là: i) Lượng gỗ nguyên liệu trong nước dùng cho sản xuất G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU có xu hướng tăng; ii) Các loại gỗ keo, tràm, cao su, thông là các loại gỗ được doanh nghiệp đánh giá cao về chất lượng, số lượng, tính ổn định. Gỗ tràm, cao su, thông có thể thay thế gỗ nhập khẩu. iii) Thị trường EU có xu hướng chuyển đổi sử dụng nguyên liệu gỗ của nước ta do rẻ hơn so với gỗ nhập khẩu; iv) Chất lượng gỗ nguyên liệu (đặc biệt gỗ keo) có xu hướng giảm như gỗ có nhiều khuyết tật, nhiều mắt, kích cơ kính nhỏ, màu sắc không đồng đều …vv; v) Thiếu đầu tư vào khâu khai thác đến sơ chế, sấy khô…vv.

6) Dự báo nhu cầu gỗ nguyên liệu cho chế biến G&SPG xuất khẩu giai đoạn 2023-2030 cho thấy: i) Nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất G&SPG xuất khẩu sang EU trong cả giai đoạn là 4,47 triệu m3, bình quân cần 4,61 triệu m3/năm, trong đó hằng năm cần nhập 1,7 triệu m3 và cần gỗ trong nước 2,9 triệu m3; ii) Gỗ nguyên liệu hợp pháp cho chế biến G&SPG sẽ được kiểm soát chặt chẽ bởi thực hiện hiệp định EVFTA và FLEGT trên phạm vi EU và Việt Nam, và còn được kiểm soát chặc chẽ theo quy định của từng quốc gia trong EU.

7) Kết quả rà soát các chính sách ưu đãi, hỗ trợ chế biến G&SPG xuất khẩu cho một số phát hiện chính sau: i) ngoài chính sách ưu đãi về thuế xuất khẩu, các chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp hiện nay ít phù hợp, nhất là chính sách về đất đai, chính sách tín dụng; ii) Chính sách các KCN chưa phù hợp với đặc điểm sản xuất các cơ sở chế biến G&SPG, như làm tăng chi phí gỗ nguyên liệu do thông qua nhiều lớp của mạng lưới cung ứng gỗ nguyên liệu (cơ sở khai thác, sơ chế, sấy); chi phí thuê đất, thuê hạ tầng cao, không được hưởng thụ trực tiếp chính sách phát triển hạ tầng, giá thuê đất; iii) doanh nghiệp tiếp cận chính sách gặp nhiều khó khăn bởi tính phức tạp, chồng chéo, chưa thiết thực với doanh nghiệp chế biến G&SPG, đôi lúc còn có thể gặp rủi ro do khai báo để tiếp cận chính sách. Thủ tục chưa rõ ràng hoặc phức tạp nhất là chính sách về hỗ trợ vốn hoặc các gói hỗ trợ của Chính phủ nên các doanh nghiệp ít quan tâm đến các chính sách ưu đãi và hỗ trợ; iv) Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách còn nhiều hạn chế.

8) Giải pháp đối với gỗ nguyên liệu cho chế biến  G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU tập trung vào: i) Nhóm giải pháp quản lý có hiệu quả nguồn nguyên liệu cần có quy hoạch tạo vùng nguyên liệu tập trung, đủ lớn, gắn với quy hoạch các cơ sở chế biến, thị trường tiêu thụ và tạo lập liên kết chuỗi, đặc biệt liên kết cung ứng gỗ bền vững; ii) Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng nguyên liệu trong nước tập trung vào ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nguyên liệu từ chọn, tạo giống, kiểm soát đến đảm bảo chất lượng giống cho rừng, cải tiến biện pháp kỹ thuật thâm canh rừng; iii) Nhóm giải pháp cải tiến kỹ thuật, trình độ sản xuất tập trung vào đầu tư công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường, tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu và năng lượng. Xây dựng các cụm xẻ sơ chế tập trung quy mô lớn ở những vùng trồng tập trungXây dựng các trung tâm giao dịch gỗ tại 3 miền Bắc, Trung, Nam.

9) Khuyến nghị định hướng chính sách ưu đãi, hỗ trợ chế biến G&SPG tập trung vào: i) Chính sách liên quan đến tiền sử dụng đất bảo đảm bình giữa doanh nghiệp chế biến gỗ trong nước với các doanh nghiệp FDI, xác định giá thuê đất phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp để sản xuất đồ gỗ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chế biến gỗ thuê đất ngoài khu công nghiệp nơi thuận lợi về giao thông, hạ tầng, điều chỉnh về chính sách miễn, giảm tiền sử dụng đất để các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa; ii) Chính sách về hạ tầng, tín dụng và thị trường cần thay đổi cách tính phí dịch vụ hạ tầng tại các KCN phù hợp với đặc điểm chế biến gỗ, giảm lãi suất cho vay khi dùng nguyên liệu trong nước, giảm chi phí lưu kho do tác động của dịch bệnh hoặc do thiên tai, xây dựng các chợ/trung tâm/sàn giao dịch nguyên liệu gỗ rừng trồng, phối hợp chặt chẽ với Hiệp hội gỗ để thúc đẩy việc xúc tiến thương mại các sản phẩm gỗ; iii) Chính sách về phát triển năng lực sản xuất cần quan tâm đến việc đào tạo về phong cách và tác phong làm việc công nghiệp cho lao động ở địa phương để cung cấp nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp thay vì đào tạo nghề cụ thể như hiện nay.

 

 

 

 

PHẦN I: VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Trong nhiều năm, kim ngạch xuất khẩu G&SPG (G&SPG) sang thị trường EU và Vương Quốc Anh  đứng vị trí thứ 5 của các thị trường xuất khẩu. Các năm 2017, 2018 và 2019, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này vẫn duy trì mức tăng bình quân khoảng 10%/năm, lần lượt là 762.562.950 USD; 785.266.729 USD và 864.589.886 USD với khoảng 88% tổng kim ngạch xuất khẩu vào EU thuộc nhóm các mặt hàng gỗ (HS 94[1]) (Tô Xuân Phúc và các tác giả, 2019). Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, và Vương Quốc Anh rời EU,  kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU năm 2020 là 536,69 triệu USD, chiếm 4,5% tổng giá trị xuất khẩu, giảm 5% so với 2019 (Tạp chí Gỗ Việt, 2020); năm 2021 đạt kim ngạch 597,76 triệu USD (chiếm 4,2%), tăng 11,4% so với năm 2020. Trong những năm tới, chế biến G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU vẫn sẽ tiếp tục phát triển, có thêm những cơ hội mới khẳng định vị trí quan trọng trong ngành gỗ và là một trong các nguồn cầu đối với gỗ rừng trồng của Việt Nam.

Năm 2020, cả nước có 5.381 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, chế biến gỗ và lâm sản, trong đó có 1.977 doanh nghiệp xuất khẩu G&SPG, trong số này có khoảng trên 300 doanh nghiệp có chế biến biến G&SPG sang thị trường EU. Trong những năm qua, giá trị nhập khẩu sản phẩm gỗ chiếm tỷ trọng thấp trong giá trị nhập khẩu G&SPG, chiếm khoảng 5%, giá trị nhập khẩu gỗ nguyên liệu tăng bình quân từ 1-6%/ năm thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu lâm sản, trên 13%/ năm. Năm 2018 nhập khẩu 8 triệu m3, năm 2019 nhập khẩu 9 triệu m3, năm 2020 nhập khẩu khoảng 8,5 triệu m3 tương ứng với giá trị từ 2,2 đến 2,53 tỷ USD (Thủ tướng Chính Phủ, 2022). Do đại dịch Covid-19, nguồn cung gỗ nhập khẩu gặp khó khăn nên giá gỗ tăng, trong đó chi phí vận chuyển, kho bãi tăng 30%-35%, và dự báo sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới. Chủng loại, chất lượng, tính hợp pháp gỗ rừng trồng trong nước chưa đáp ứng yêu cầu cho chế biến G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU.

Ngày 30 tháng 3 năm 2020, Hội đồng châu Âu thông qua Hiệp định EV FTA[2]; ngày 08 tháng 6 năm 2020, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam phê chuẩn Hiệp định EVFTA. Trong hiệp định có các quy định chặt chẽ về cam kết thực hiện các khoản mục liên quan đến G&SPG xuất khẩu sang các nước thuộc khối Liên minh châu Âu. Những quy định này được trình bày tại một số điều trong Chương 13 của Văn bản Hiệp định EVFTA với các nội dung chính sau đây: một là, quản lý tài nguyên rừng bền vững và thương mại lâm sản (Điều 13.8) bằng khuyến khích thúc đẩy thương mại lâm sản từ những khu rừng được quản lý bền vữngđược khai thác phù hợp với luật pháp trong nước; bảo đảm về trao đổi thông tin về rừng; hai là, bảo tồn đa dạng sinh học (Điều 13.7) bằng khuyến khích thương mại hàng hóa (trong lĩnh vực lâm nghiệp là G&SPG) mang lại lợi ích cho việc sử dụng bền vững và bảo tồn đa dạng sinh học, phù hợp với quy định luật pháp trong nước; ba là, biến đổi khí hậu bằng giảm phát thải khí nhà kính (Điều 13.6); trong lĩnh vực lâm nghiệp: nói không với chuyển rừng tự nhiên sang rừng trồng, chỉ trồng rừng sản xuất trên đất trống, đồi trọc; nâng cao trữ lượng các bon rừng trồng; bốn là, thực hiện thỏa thuận đa phương về lao động, việc làm (Điều 13.4) theo tuyên bố của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) không sử dụng lao động trẻ em trong sản xuất gỗ, sản phẩm gỗ.

Ngày 01/09/2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 102/2020/NĐ-CP, quy định hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam. Liên quan đến gỗ rừng trồng trong nước cho xuất khấu gỗ và sản phẩm phẩm gỗ, Nghị định quy định tại các Điều 8, 9, 10 về khai thác, vận chuyển, mua bán, chế biến gỗ thực hiện theo quy định về quản lý, truy xuất nguồn gốc lâm sản. Với các quy định hiện nay, bảo đảm gỗ hợp pháp phải đáp ứng 6 tiêu chí sau: Đất rừng có chủ hợp pháp và không có mâu thuẫn, tranh chấp; Tuân thủ theo đúng quy định về khai thác, sử dụng gỗ rừng trồng sản xuất; Có khai báo đối với rừng do nhà nước đầu tư, khoán, kinh doanh, bảo vệ; Có hợp đồng mua bán gỗ và có bảng kê; có lập hồ sơ rừng và lâm sản đơn vị hoặc tại gia đình; tuân thủ về xã hội, môi trường và nộp thuế theo quy định.

Kết quả nghiên cứu nhu cầu gỗ rừng trồng cho chế biến xuất khẩu đáp ứng yêu cầu Hiệp định EVFTA và thực thi cam kết VPA ở Việt Nam thực hiện năm 2021 (Nghiên cứu giai đoạn I) dừng ở phạm vi nghiên cứu tổng quan trên cả nước, một số vấn đề nghiên cứu then chốt, cụ thể về gỗ rừng trồng cho chế biến gỗ và đồ gỗ xuất khẩu sang thị trường châu Âu chưa được giải quyết, đó là: i) Nhu cầu về gỗ nguyên liệu cho chế biến G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU giai đoạn 2022-2030; ii) Chính sách ưu đãi, hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến từng bước giảm gỗ nhập khẩu và tăng sử dụng gỗ rừng trồng trong nước để chế biến xuất khẩu gỗ và sang phẩm gỗ sang thị trường EU.

Vì vậy, nghiên cứu nhu cầu gỗ nguyên liệu cho chế biến gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu sang thị trường Châu Âu đáp ứng yêu cầu Hiệp định EVFTA và thực thi cam kết VPA là rất cần thiết nhằm mục đích tăng cường khả năng cung ứng gỗ rừng trồng trong nước bền vững cho chế biến G&SPG sang thị trường châu Âu đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về số lượng, chất lượng và tính hợp pháp.

 

 

PHẦN II: MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

  • Mục tiêu nghiên cứu

Để giải quyết 02 vấn đề nêu trên, mục tiêu của nghiên cứu trong trong năm 2022 là:

Phân tích tình hình sử dụng gỗ nguyên liệu và dự báo nhu cầu gỗ nguyên liệu cho chế biến G&SPG xuất khẩu sang thị trường châu Âu trong giai đoạn 2022-2030.

– Phân tích tình hình thực hiện chính sách và khuyến nghị định hướng chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp chế biến từng bước giảm sử dụng gỗ nhập khẩu, tăng sử dụng gỗ rừng trồng trong nước để chế biến xuất khẩu G&SPG sang thị trường châu Âu.

  • Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là cầu về gỗ nguyên liệu cho các doanh nghiệp chế biến G&SPG xuất khẩu sang thị trường châu Âu.

  • Nội dung nghiên cứu

Nội dung nghiên cứu tập trung vào:

Đánh giá thực trạng, dự báo nhu cầu gỗ nguyên liệu cho chế biến gỗ và đồ gỗ xuất khẩu sang thị trường EU và các giải pháp

Tổng quan, đánh giá tình hình thực hiện chính sách và khuyến nghị định hướng chính sách ưu đãi, hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến từng bước giảm gỗ nguyên liệu nhập khẩu, tăng sử dụng gỗ rừng trồng trong nước.

  • Phương pháp nghiên cứu
    • Thu thập, tổng hợp và phân tích tài liệu thứ cấp

– Đã thu thập và sàng lọc sơ bộ danh sách với thông tin liệu chung của 1.900 cơ sở chế

– Các tài liệu liên quan đến gỗ rừng trồng trong nước từ công bố hiện trạng rừng toàn quốc hằng năm từ năm 2001 đến năm 2021 của Bộ NN&PTNT; Báo cáo tổng kết Dự án tổng điều tra kiểm kê rừng giai đoạn 2013-2016; Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Đề án Tái cơ ấu ngành lâm nghiệp giai đoạn 2013-2020; Báo cáo thực hiện “Kế hoạch hành động nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị rừng trồng sản xuất giai đoạn 2014 – 2020”; Báo cáo tổng kết Dự án khuyến nông về  xây dựng mô hình chuyển hóa rừng cung cấp gỗ nhỏ sang gỗ lớn và chăm sóc rừng trồng thâm canh gỗ lớn; các báo cáo tổng kết hằng năm của Tổng cục Lâm nghiệp thực hiện Chương trình bảo vệ và phát triển lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2016-2020; các tài liệu liên quan khác.

–  Đã thu thập thông tin, số liệu thứ cấp về tự nhiên, KTXH của các tỉnh có các cơ sở chế biến G&SPG xuất khẩu như: Phú THọ, Hà Nội, Nam Định, Quảng Nam,  Bình Định, Bình Dương từ các tài liệu công bố trên cổng thông tin điện tử của các tỉnh và các Nghị quyết của tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân; báo cáo của UBND tỉnh về các nội dung liên quan đến lâm nghiệp và trồng rừng, chế biến lâm sản.

– Đã thu thập các thông tin chung về tình hình thực hiện một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ như  Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 về cơ chế, chính sách khuyến khích DN đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 5/7/2018 về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày 7/9/2018; Quyết định số 38/2016/QĐ-TTg ngày 14/9/2016 về một số chính sách BV, PTR và đầu tư hỗ trợ kết cấu hạ tầng, giao nhiệm vụ công ích đối với các doanh nghiệp NLN; ……

  • Chọn điểm nghiên cứu

Lựa chọn 03 vùng đại diện cho 03 miền (miền Bắc, miền Trung và miền Nam). Tại mỗi vùng chọn một số địa phương (tỉnh) làm điểm nghiên cứu, cụ thể là:

+ Vùng trung du và miền núi phía Bắc (đại diện miền Bắc) với đặc trưng cụ thể  đáp ứng các tiêu chí về chế biến G&SPG xuất khẩu, trong đó có xuất khẩu sang thị trường châu Âu. Thành phố Hà Nội, Phú Thọ, Nam Định được lựa chọn, tiến hành điều tra, nghiên cứu.

+ Vùng Nam Trung Bộ (đại diện miền Trung) với đặc trưng cụ thể  đáp ứng các tiêu chí về chế biến G&SPG xuất khẩu, trong đó có xuất khẩu sang thị trường châu Âu. Các tỉnh Quảng Nam và Bình Định đã được lựa chọn, tiến hành điều tra, nghiên cứu.

+ Vùng Đông Nam Bộ (đại diện miền Nam) có cơ sở chế biến xuất khẩu sang thị trường Châu Âu phát triển rất mạnh. Tỉnh Bình Dương được lựa chọn, tiến hành điều tra, nghiên cứu.

  • Phương pháp điều tra doanh nghiệp chế biến G&SPG

Theo thống kế sơ bộ, cả nước có khoảng 1.977 cơ sở chế biến G&SPG xuất khẩu, trong đó có khoảng 300 cơ sở có xuất khẩu sang thị trường châu Âu, trong đó, miền Nam có khoảng  60%; miền Trung có khoảng 30% và miền Bắc khoảng 10%. Trên cơ sở này, nghiên cứu đã lựa chọn ra 130 doanh nghiệp để gửi bảng hỏi. Kết quả đã có 46 doanh nghiệp trả lời phiếu điều tra. Bảng hỏi cho các doanh nghiệp được thiết kế trả lời qua công cụ KoboToolbox (Phụ lục 02: Phiếu phỏng vấn[3])

Nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn sâu bằng phương pháp phỏng vấn bán định hướng (SSI) với 16 cơ sở chế biến, trong đó: miền Bắc với 5 cơ sở chế biến, miền Trung 7 cơ sở chế biến và miền Nam 4 cơ sở chế biến. (Phụ lục 01: Bảng phỏng vấn bán định hướng – SSI).

Danh sách doanh nghiệp trả lời bảng hỏi và phỏng vấn trực tiếp phân bố theo tỉnh được thống kê ở bảng dưới đây:

Bảng 1: Phân bố doanh nghiệp trả lời và phỏng vấn trực tiếp theo tỉnh

Tỉnh Số doanh nghiệp điều tra bằng bảng hỏi Số doanh nghiệp phỏng vấn bằng SSI
Bình Dương 19 4
Bình Định 10 6
Đà Nẵng 1 0
Đồng Nai 4 0
Hà Nội 4 3
Hồ Chí Minh 1 0
Nam Định 1 1
Phú Thọ 1 2
Quảng Nam 2 1
Quảng Trị 1 0
Thanh Hoá 1 0
Tuyên Quang 1 0
Tổng 46 16

 

  • Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu

Số liệu phỏng vấn được trích xuất từ phần mềm KoboToolbox qua phần mềm MS. Excel đã được rà soát, làm sạch, mã hoá… rồi sử dụng phần mềm IBM SPSS Statistics 22 để phân tích các chỉ tiêu thống kê mô tả, biểu đồ hoá và thăm dò các mối quan hệ (nếu có)…  Kết quả tổng hợp phân tích được thể hiện tại Phụ lục 03.

  • Phương pháp chuyên gia

Nhóm nghiên cứu đã báo cáo đề cương nghiên cứu, tiếp thu góp ý của các chuyên gia tại cuộc họp thẩm định Đề cương do SRD tổ chức. 03 cuộc họp kỹ thuật do Hội chủ rừng tổ chức được sự góp ý, tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học.

 

 

PHẦN III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

1.    Tình hình chung về chế biến G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU

  • Trên phạm vi cả nước

Hình 1 thể hiện số lượng doanh nghiệp chế biến gỗ và lâm sản của cả nước tăng trưởng theo các năm từ năm 2016 đến năm 2020 (Thủ tướng Chính Phủ, 2022). Đến nay (năm 2022), chưa có số liệu công bố chính thức các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, chế biến gỗ và lâm sản. Trong số các doanh nghiệp nêu trên, chưa có số liệu thống kê chính thức số doanh nghiệp nghiệp chế biến xuất khẩu sang thị trường EU. Kết quả tổng hợp sơ bộ của nhóm nghiên cứu ước tính có khoảng 300 doanh nghiệp có chế biến xuất khẩu sang thị trường EU, tuy vậy số lượng doanh nghiệp luôn biến động do phụ thuộc vào các đơn hàng theo tháng, quý.

Nguồn: số liệu thống kê của Tổng cục thống kê

Hình 1: Biểu đồ diễn biến số lượng doanh nghiệp chế biến gỗ và lâm sản giai đoạn 2016-2020

Việt Nam xuất khẩu G&SPG sang 160 quốc gia và vùng lãnh thổ. Các thị trường xuất khẩu chính vẫn là Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và EU. EU là một trong những thị trường quan trọng của Việt Nam nhưng kim ngạch ở mức khiêm tốn được thể hiện tại. Năm 2017, kim ngạch từ thị trường này (EU_28) chiếm 9,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành. Năm 2017, tăng trưởng về kim ngạch so với năm 2016 đạt 2,6%. Năm 2019, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng gỗ củaViệt Nam sang khối này đạt 864,6 triệu USD, tăng 10% so với năm 2018. Giá trị xuất khẩu sang EU_27 (không bao gồm Anh) trong năm 2020 đạt 536,69 triệu USD, giảm 5% so với năm trước đó, chiếm 4,5% tổng giá trị xuất khẩu[4].

 

 

Cả nước có khoảng 88% tổng kim ngạch xuất khẩu vào EU thuộc nhóm các mặt hàng gỗ (HS94). Phần còn lại là các mặt hàng thuộc nhóm gỗ nguyên liệu (HS44) (Tạp chí Gỗ Việt, 2019).

Các mặt hàng thuộc nhóm đồ gỗ nội thất khác, ghế ngồi và nội thất phòng ngủ là nhóm mặt hàng chủ lực được Việt nam xuất khẩu vào EU. Các nhóm mặt hàng này chiếm số lượng lớn và tăng trưởng đều đặn từ năm 2016 đến 2021, điều này cho thấy thị hiếu và nhu cầu mặt hàng đối với thị trường EU tương đối ổn định, ít có sự biến động.

  • Thực tế từ các doanh nghiệp được điều tra
    • Tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường EU của các doanh nghiệp

Hình 2 cho thấy 58% là các doanh nghiệp có tỷ trọng xuất khẩu G&SPG sang thị trường EU chiếm tỷ lệ trên 51% tổng sản lượng của doanh nghiệp, đây là tỷ lệ khá lớn đáp ứng yêu cầu đánh giá về nhu cầu nguyên liệu gỗ cho sản xuất các sản phẩm xuất khẩu thị trường EU của doanh nghiệp. 21% là số doanh nghiệp có tỷ trọng xuất khẩu sang EU từ 31-50%; 13% là số doanh nghiệp có tỷ trọng xuất khẩu sang EU từ 11-31%. Tỷ lệ các doanh nghiệp điều tra có tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm sang EU dưới 10% chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ (8%).

Hình 2: Tỷ trọng xuất khẩu G&SPG sang thị trường EU của doanh nghiệp

Kết quả nghiên cứu trực tiếp tại các doanh nghiệp cũng cho kết quả tương tự, phần lớn doanh nghiệp đều có tỷ trọng xuất khẩu G&SPG sang thị trường EU từ 30% trở lên, cá biệt có doanh nghiệp xuất khẩu 100% sang thị trường này mà không có các thị trường khác. Có một số doanh nghiệp trước đây có tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường EU lớn trên 75% nhưng hiện nay đã giảm tỷ lệ này xuống còn dưới 50% và chuyển đổi sang các thị trường khác. Lý do được cho là sự phức tạp trong hồ sơ giấy tờ hàng hóa xuất khẩu sang EU, yêu cầu cao về nguồn gốc gỗ và khó khăn trong việc đáp ứng yêu cầu về loại gỗ nhập khẩu sử dụng cho sản phẩm trong tình hình nhập khẩu nguyên liệu gỗ khó khăn như hiện nay. Sự chuyển hóa này chủ yếu diễn ra ở các doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn, các đối tác khách hàng phong phú, đặc biệt là thị trường Mỹ, doanh nghiệp có thể nhận được đơn hàng lớn từ thị trường Mỹ và sẵn sàng hủy các đơn hàng của khách hàng EU, chỉ giữ lại các  đối tác truyền thống và lâu đời.

  • Sản phẩm và giá trị xuất khẩu sang thị trường EU

Các doanh nghiệp tập trung chủ yếu vào 5 loại sản phẩm, bao gồm: đồ gỗ nội thất, đồ gỗ ngoại thất, các loại ván nhân tạo, gỗ xẻ và gỗ xây dựng, các sản phẩm khác (dăm gỗ, viên nén ván sàn). Kết quả điều tra cho thấy, phần lớn doanh nghiệp tập trung vào sản xuất chuyên biệt đồ nội thất, đồ ngoại thất, hoặc kết hợp cả hai loại đồ nội thất và ngoại thất, ngoài ra có một số doanh nghiệp sản xuất kết hợp giữa đồ nội thất và ván nhân tạo (ván ghép thanh, ván dán), hoặc đồ ngoại thất và ván nhân tạo. Kết quả điều tra thể hiện như Hình 3. Trong số 46 doanh nghiệp điều tra, có trên 80% là các doanh nghiệp sản xuất đồ nội thất và ngoại thất, trong đó sản xuất đồ nội thất chiếm ưu thế hơn (53%) đồ ngoại thất (30%), còn lại 8% là các doanh nghiệp có sản xuất ván nhân tạo, 3% doanh nghiệp có sản xuất gỗ xẻ, 6% doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng khác (viên nén, dăm, …).

Hình 3: Cơ cấu loại hình sản phẩm của doanh nghiệp điều tra

+ Sản phẩm nội thất

Qua khảo sát trực tiếp tại 16 doanh nghiệp, các sản phẩm nội thất xuất khẩu sang thị trường EU rất phong phú về mẫu mã, kiểu dáng. Các sản phẩm bao gồm nội thất phòng khách, nội thất phòng ngủ, nội thất phòng bếp, nội thất phòng tắm, …. Các sản phẩm này đều được làm từ gỗ tự nhiên hoặc gỗ tự nhiên kết hợp ván nhân tạo. Loại gỗ sử dụng có thể là nguyên liệu nhập khẩu hoặc nguyên liệu trong nước tùy thuộc vào đơn hàng.  Đồ gỗ nội thất là sản phẩm chủ lực xuất khẩu sang thị trường EU, có các yêu cầu khắt khe về truy suất nguồn gốc gỗ (100% yêu cầu có chứng chỉ FSC) và chứng chỉ an toàn hóa chất, an toàn sản phẩm. Sản phẩm đồ nội thất phải là những sản phẩm an toàn và thân thiện với môi trường. Cơ cấu giá trị xuất khẩu sản phẩm nội thất của các doanh nghiệp chế biến gỗ điều tra thay đổi theo năm được thể hiện ở Bảng 2.

Bảng 2: Biến động giá trị xuất khẩu sản phẩm nội thất trong 3 năm của các doanh nghiệp

STT Giá trị xuất khẩu Biến động theo tỷ trọng (%)
2019 2020 2021
1 < 1 triệu USD 42 29 21
2 1-5 triệu USD 25 33 50
3 6-10 triệu USD 8 13 12
4 11-50 triệu USD 25 25 17

Có thể thấy phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu đồ nội thất sang thị trường EU tập trung ở phân khúc giá trị xuất khẩu từ 1-5 triệu USD (chiếm khoảng trên 60%) đây là lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm ưu thế. Giá trị xuất khẩu sản phẩm nội thất sang thị trường EU của các doanh nghiệp điều tra có sự thay đổi rõ rệt giữa các năm 2019, 2020 và 2021. Số doanh nghiệp có giá trị xuất khẩu sản phẩm nội thất sang thị trường EU từ 1-5 triệu USD/năm có dấu hiệu tăng trưởng từ 25% năm 2019 lên 33% trong năm 2020 và tăng mạnh vào năm 2021 đạt 50% số doanh nghiệp được khảo sát.

+ Sản phẩm ngoại thất

Sản phẩm ngoại thất xuất khẩu sang thị trường EU tại các doanh nghiệp khảo sát trực tiếp chủ yếu bao gồm các bộ bàn ghế làm hoàn toàn bằng gỗ, bàn ghế gỗ kết hợp với vải, ghế tắm nắng, ghế xích đu,…. Mẫu mã đa dạng phong phú, sản phẩm được xử lý hoàn thiện với nhiều loại hình vật liệu khác nhau, như lau dầu chống mốc, sơn phủ, các loại vật liệu hoàn thiện này phải đảm bảo an toàn và thân thiện môi trường mới đủ đáp ứng cho xuất khẩu thị trường EU. Biến động giá trị xuất khẩu sản phẩm ngoại thất của các doanh nghiệp khảo sát thể hiện tại Bảng 3

Bảng 3: Biến động giá trị xuất khẩu sản phẩm ngoại thất trong 3 năm của các doanh nghiệp chế biến

STT Giá trị xuất khẩu Biến động theo tỷ trọng (%)
2019 2020 2021
1 < 1 triệu USD 6 6 6
2 1-5 triệu USD 59 47 47
3 6-10 triệu USD 6 18 23
4 11-50 triệu USD 29 23 24
5 Trên 50 triệu USD 0 6 0

 

Có thể thấy giá trị xuất khẩu đồ ngoại thất sang thị trường EU của các doanh nghiệp điều tra chủ yếu tập trung ở mức từ 1 đến 50 triệu USD/năm, chiếm khoảng 50%. Đứng thứ 2 là các doanh nghiệp có giá trị xuất khẩu từ 11-50 triệu USD/năm chiếm khoảng 25%, thứ 3 là các doanh nghiệp có giá trị xuất khẩu từ 6-10 triệu USD/năm. Điều này phù hợp với phân tích về quy mô doanh nghiệp và tỷ lệ các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ ưu thế trong tổng số doanh nghiệp được điều tra.

+ Sản phẩm ván nhân tạo

Ván nhân tạo xuất khẩu sang thị trường EU của các doanh nghiệp khảo sát trực tiếp chủ yếu có 2 loại là ván dán và ván ghép thanh. Loại hình sản phẩm này chiếm tỷ trọng ít hơn trong doanh nghiệp và trong xuất khẩu sang EU so với sản phẩm nội thất và ngoại thất.  Tổng số doanh nghiệp có sản xuất ván nhân tạo chỉ chiếm 8% trong tổng số 46 doanh nghiệp được điều tra, cơ cấu giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp này thể hiện ở Bảng 4

Bảng 4: Biến động giá trị xuất khẩu sản phẩm ván nhân tạo trong 3 năm của các doanh nghiệp

STT Giá trị xuất khẩu Biến động theo tỷ trọng (%)
2019 2020 2021
1 < 1 triệu USD 0 50 34
2 1-5 triệu USD 50 25 33
3 6-10 triệu USD 50 25 0
4 11-50 triệu USD 0 0 33

Có thể thấy giá trị xuất khẩu ván nhân tạo của các doanh nghiệp được điều tra chủ yếu tập trung ở phân khúc dưới 5 triệu USD/năm (chiếm trên 50%). Về tỷ lệ doanh nghiệp có giá trị xuất khẩu ván nhân tạo sang thị trường EU có sự gia tăng từ giá trị xuất khẩu 1-5 triệu USD/năm và 11-50 triệu USD/năm trong năm 2020 và 2021. Kết quả khảo sát tại 16 doanh nghiệp cho thấy, chỉ có 2/16 doanh nghiệp có sản xuất ván nhân tạo xuất khẩu, chủ yếu là ván dán và ván ghép thanh, đây cũng không phải là sản phẩm xuất khẩu chủ lực của doanh nghiệp. Trong số 16 doanh nghiệp khảo sát, phần lớn doanh nghiệp đều có dây truyền sản xuất ván ghép thanh, và ghép ván, nhưng chủ yếu phục vụ nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp mà không đầu tư để sản xuất chuyên nghiệp cho xuất khẩu.

+ Sản phẩm gỗ xẻ

Trong số 46 doanh nghiệp được điều tra, không có doanh nghiệp nào xuất khẩu gỗ xẻ sang thị trường EU trong 3 năm từ 2019-2021

+ Các sản phẩm khác (dăm, viên nén, …)

Trong số các doanh nghiệp điều tra, các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm khác như dăm gỗ, viên nén, ván sàn, … chiếm một tỷ lệ nhỏ, quy mô của các doanh nghiệp này chủ yếu chia làm 3 loại, 50% là doanh nghiệp sản xuất với quy mô nhỏ dưới 5000m3 sản phẩm/năm, còn lại 25% là doanh nghiệp sản xuất với quy mô vừa, 25% là doanh nghiệp sản xuất với quy mô lớn (Hình 4) Giá trị xuất khẩu các sản phẩm khác (dăm gỗ, viên nén, …) của các doanh nghiệp được điều tra chủ yếu tập trung ở phân khúc 1-5 triệu USD/năm, tỷ lệ này không có sự thay đổi trong các năm 2019 đến 2021 (Hình 5)

 

Hình 4: Quy mô doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm khác

 

Hình 5: Cơ cấu giá trị xuất khẩu sản phẩm khác (dăm gỗ, viên nén, …) sang thị trường EU

 

  • Một số phát hiện chính

– So với các thị trường chính như Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc, giá trị G&SPG xuất khẩu của S&SPG sang thị trường EU hàng năm thấp, bình quân chiếm khoảng 8%, luôn luôn ở vị trí thứ 5. Điểm lưu ý ở đây là, EU với 27 nước thành viên và Vương quốc Anh nhập khẩu hằng năm với giá trị như vậy là khá khiêm tốn.

– Số doanh nghiệp chế biến G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU ít, chiếm tỷ trọng thấp trong tổng số doanh nghiệp chế biến G&SPG xuất khẩu. Nhưng tại các doanh nghiệp đó có mặt hàng và giá trị xuất khẩu sang thị trường EU của các doanh nghiệp này có chiếm trọng cao trong tổng mặt hàng và giá trị sản xuất xuất khẩu của doanh nghiệp.

– Trong 7 nhóm mặt hàng G&SPG nhập khẩu từ Việt Nam vào EU là khá đa dạng, nhưng sản phẩm nội thất, sản phẩm ngoại thất chiếm tỷ trọng lớn. Những sản phẩm này đòi yêu cầu nguyên liệu gỗ đặc thù về chủng loại (một số bắt buộc phải nhập khẩu từ châu Âu), chất lượng và tính hợp pháp về cao. Đây là vấn đề ảnh hưởng đến gỗ nguyên liệu thay thế từ trong nước.

–  Ngoài đáp ứng yêu cầu chung về hiệp định EVFTA, VPA/FLEGT thì mỗi quốc gia thành viên EU có những yêu cầu riêng về chất lượng sản phẩm, truy xuất nguồn gốc gỗ hợp pháp. Đây là một trong vấn đề khá trở ngại về chủng loại mặt hàng và tiêu chuẩn.

– EU là thị trường rất nhậy cảm và bị ảnh hưởng những yếu tố khách quan trong những năm gần đây, nhất là dịch bệnh, xung đột khu vực …

2.          Nguyên liệu cho chế biến G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU

  • Nguyên liệu nhập khẩu
    • Tình hình chung

Xu thế trong những năm gần đây, gỗ nguyên liệu nhập khẩu không có biến động nhiều về giá trị và khối lượng: năm 2016 nhập 7 triệu m3, năm 2017 nhập 7 triệu m3, năm 2018 nhập 8 triệu m3, năm 2019 nhập 9 triệu m3, năm 2020 nhập khẩu khoảng 8,5 triệu m3, năm 2021 khoảng 8.6 triệu m3. Tuy nhiên, tỷ trọng sử dụng gỗ nhập khẩu trong sản xuất, chế biến đã có sự thay đổi đáng kể. Trong giai đoạn trước năm 2010, lượng gỗ nhập khẩu trong chế biến sản phẩm luôn chiếm khoảng 70% tổng nhu cầu gỗ trong sản xuất chế biến, đến năm 2013, tỷ trọng này giảm còn khoảng 40% và đến năm 2020, lượng gỗ nhập khẩu sử dụng cho chế biến chỉ chiếm khoảng 25% tổng nhu cầu nguyên liệu của sản xuất. Chủng loại gỗ nhập khẩu chủ yếu là các loại gỗ tròn, gỗ xẻ và các loại ván nhân tạo, được sử dụng làm nguyên liệu sản xuất các sản phẩm xuất khẩu (Thủ tướng Chính Phủ, 2022) [5]

Kết quả điều tra 46 doanh nghiệp cho thấy, tỷ lệ doanh nghiệp có nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất các mặt hàng G&SPG xuất khẩu rất lớn, chiếm 87%, còn 13% là số doanh nghiệp không sử dụng nguyên liệu nhập khẩu cho sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. Kết quả này cho thấy, phần lớn các doanh nghiệp chế biến G&SPG xuất khẩu có nhu cầu sử dụng nguyên liệu nhập khẩu cho sản xuất (Hình 6)

Hình 6: Tỷ lệ doanh nghiệp chế biến G&SPG sử dụng nguyên liệu nhập khẩu

Khảo sát trực tiếp tại 16 doanh nghiệp cũng cho kết quả tương tự, 16/16 doanh nghiệp đều có nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất G&SPG xuất khẩu nói chung và xuất khẩu sang thị trường EU nói riêng. Các nguyên liệu nhập khẩu này chủ yếu theo yêu cầu của khách hàng, bắt buộc phải sử dụng nguyên liệu nhập khẩu cho sản phẩm của họ. Đây là đặc thù chung của thị trường EU.

2.1.2.    Gỗ tròn, gỗ xẻ nhập khẩu

  1. Lượng gỗ tròn, gỗ xẻ nhập khẩu

Bảng 5 cho thấy lượng gỗ tròn gỗ xẻ nhập khẩu cho sản xuất của các doanh nghiệp được điều tra ít có sự biến động trong 3 năm 2019, 2020 và 2021. Phần lớn các doanh nghiệp có lượng nhập gỗ tròn, gỗ xẻ bình quân/năm trong khoảng dưới 5000m3/năm (bình quân 3 năm đều trên 80%), chỉ có số ít doanh nghiệp có lượng nhập gỗ tròn gỗ xẻ nguyên liệu trên 5000m3/năm (chiếm tỷ lệ 17% và không có sự biến đổi trong 3 năm). Đây là lượng nguyên liệu nhập tương đối ít so với quy mô sản xuất và xuất khẩu doanh nghiệp.

Bảng 5: Biến động tỷ lệ nhập khẩu gỗ nguyên liệu trong 3 năm của các doanh nghiệp chế biến

 

STT Khối lượng nhập khẩu bình quân/năm (m3/năm) Biến động theo tỷ trọng (%)
2019 2020 2021
1 Dưới 1000 46 43 43
2 1000-5000 37 40 40
3 Trên 5000 17 17 17

 

Kết quả điều tra cho thấy lượng nguyên liệu gỗ tròn gỗ xẻ nhập khẩu bình quân theo năm dao động trong khoảng từ 17.000m3 (giá trị nhỏ nhất min) đến trên 33.000m3 (theo giá trị lớn nhất max).  Xét sự biến đổi tỷ lệ nguyên liệu gỗ tròn, gỗ xẻ nhập bình quân theo năm theo giá trị max thì lượng gỗ tròn gỗ xẻ nhập khẩu này có xu thế giảm từ năm 2019-2021. Kết quả này phù hợp với kết quả khảo sát thực tế tại 16 doanh nghiệp. Nếu như 3 năm trước khi có đại dịch covid, nguyên liệu nhập khẩu ít có sự biến động về giá và nguồn cung, các doanh nghiệp chế biến gỗ nhập khẩu tương đối dễ dàng. Thị hiếu của người dân Châu Âu nói chung, các thị trường khác nói riêng ít có sự thay đổi, các sản phẩm xuất khẩu sử dụng nhiều gỗ nhập khẩu, cùng với đó là nguồn cung gỗ trong nước chưa đảm bảo nhu cầu. Nhưng từ khi có đại dịch covid trên toàn cầu, ảnh hưởng trực tiếp đến mọi người dân trên toàn thế giới, tỷ lệ lạm phát gia tăng, bất ổn chính trị giữa Nga và Ucraina đã ảnh hưởng rất lớn đến nguồn nguyên liệu nhập khẩu vào Việt Nam, các doanh nghiệp trước đây phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu này dần chuyển đổi sang sử dụng nguyên liệu trong nước, vì thế xu hướng gỗ nhập khẩu giảm.

  1. Lượng gỗ tròn, gỗ xẻ nhập khẩu dùng cho sản xuất G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU

Hình 7 cho thấy tỷ lệ sử dụng lượng nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất G&SPG xuất khẩu thị trường EU của các doanh nghiệp điều tra là rất ít, có 34% doanh nghiệp được điều tra sử dụng lượng nguyên liệu này ở mức dưới 10% trên tổng lượng nguyên liệu nhập khẩu của doanh nghiệp, có 24% doanh nghiệp điều tra sử dụng ở ở mức 26-50% và 24 % doanh nghiệp sử dụng ở mức 51-75% . Chỉ có 9% doanh nghiệp sử dụng lượng nguyên liệu nhập khẩu cho sản xuất mặt hàng xuất khẩu EU chiếm trên 75% trong tổng lượng nguyên liệu nhập.

Kết quả khảo sát trực tiếp tại 16 doanh nghiệp cho thấy kết quả tương tự, có 6/16 doanh nghiệp khảo sát có tỷ lệ sử dụng nguyên liệu nhập khẩu cho sản xuất sản phẩm xuất khẩu EU dưới 10% (3/6 doanh nghiệp này có tỷ lệ sử dụng nguyên liệu nhập khẩu dưới 5%). Số còn lại sử dụng lượng nguyên liệu nhập khẩu từ 10-20%. Lượng nguyên liệu nhập khẩu bình quân hàng năm cũng rất ít, số nguyên liệu này toàn bộ sử dụng làm theo đơn đặt hàng của đối tác trực tiếp chỉ định loại gỗ sử dụng.

Hình 7: Tỷ lệ sử dụng gỗ nguyên liệu nhập khẩu cho sản xuất sản phẩm xuất khẩu sang thị trường EU

  1. Loại gỗ nhập khẩu chủ yếu

Trong số các loại gỗ nhập khẩu, gỗ sồi trắng có tỷ lệ nhập khẩu lớn nhất (23%) cho sản xuất hàng xuất khẩu. Loại gỗ có tỷ lệ nhập khẩu lớn thứ 2 là gỗ thông, chiếm tỷ lệ 18%, gỗ bạch đàn có lượng nhập khẩu lớn thứ 3 chiếm tỷ lệ 16% còn lại là gỗ tếch 11% và gỗ sồi đỏ 8%. Đây là 5 loại gỗ sử dụng phổ biến để sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. Các loại gỗ khác như gỗ dương, gỗ dẻ gai, gỗ óc chó,… có nhập khẩu, nhưng lượng để sử dụng cho sản xuất mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ lệ rất nhỏ, chỉ dưới 4% (Hình 8).

Kết quả kháo sát trực tiếp tại doanh nghiệp cho thấy, gỗ sồi trắng, gỗ thông và gỗ bạch đàn thường được các doanh nghiệp nhập khẩu để sản xuất các đơn hàng nội thất cao cấp xuất khẩu. Đây là những loại gỗ có chất lượng tốt, vân thớ, màu sắc đẹp, dễ gia công chế biến thành các sản phẩm có tính thẩm mỹ cao nên được khách hàng ưa chuộng và chỉ định dùng cho đơn hàng của mình. Đây cũng là loại gỗ được doanh nghiệp đánh giá là không thể thay thế do nhu cầu khách hàng và không có nguyên liệu trong nước thay thế (Hình 9)

Hình 8: Loại gỗ nhập khẩu

Hình 9: Loại gỗ bắt buộc phải nhập vì không có nguyên liệu thay thế

Gỗ nguyên liệu nêu trên được nhập khẩu chủ yếu từ các quốc gia như Hoa Kỳ, Newzeland, các quốc gia Nam Phi, Uruguay, Braxin.

  1. Đánh giá về lợi thế của nguyên liệu gỗ nhập khẩu

Đánh giá lợi thế của nguyên liệu nhập khẩu, nhóm nghiên cứu sử dụng 3 bộ tiêu chí, bao gồm: các ưu điểm về chất lượng, lợi thế về thủ tục thị trường, đáp ứng những yêu cầu của thị trường EU đối với G&SPG xuất khẩu, kết quả đánh giá thể hiện ở Bảng 6 và Hình 10

Bảng 6: Chỉ tiêu đánh giá chất lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu

Tiêu chí đánh giá Tỷ lệ %
Các ưu điểm về chất lượng
Chất lượng gỗ tốt 52
Màu sắc đồng đều 33
Quy cách gỗ đảm bảo nhu cầu 58
Chất lượng gỗ đồng đều 58
Thuận lợi về thủ tục, thị trường
Thủ tục thông thoáng 21
Giá cả cạnh tranh 36
Cạnh tranh lành mạnh, minh bạch 30
Ít tiêu cực 24
Truy suất nguồn gốc gỗ dễ dàng, rõ ràng 64
Dễ kiểm tra giám sát 42
Đáp ứng những yêu cầu của thị trường EU đối với G&SPG xuất khẩu
Có đầy đủ chứng chỉ theo yêu cầu (FSC, PEFC,…) 82
Không sử dụng gỗ bất hợp pháp 58

 

Có thể thấy, tiêu chí được đánh giá cao nhất, chiếm 82% doanh nghiệp đồng ý lợi thế của gỗ nhập khẩu là có đầy đủ chứng chỉ theo yêu cầu (FSC, PEFC, …) đối với các sản phẩm xuất khẩu sang thị trường EU. Đây là điều kiện bắt buộc để sản xuất các mặt hàng xuất khẩu sang thị trường này. Kết quả khảo sát trực tiếp tại các doanh nghiệp cho thấy, khi hàng hóa xuất khẩu sang thị trường EU nói riêng và các thị trường khác nói chung, các đối tác khách hàng định kỳ sẽ thuê bên thứ 3 đánh giá độc lập sản phẩm về các nội dung như chất lượng, kết cấu, tiêu chí an toàn hóa chất và các hồ sơ đảm bảo nguồn gốc gỗ. Đây là quy trình rất khắt khe, bắt buộc các doanh nghiệp phải tuân thủ để tránh những phiền toái và thiệt hại về mặt kinh tế khi một trong số các tiêu chí kiểm tra không đảm bảo, hàng hóa sẽ bị trả lại. Do vậy hiện nay các doanh nghiệp sẵn sàng chi trả giá cao cho nguyên liệu đảm bảo tính hợp pháp và có đầy đủ chứng chỉ theo yêu cầu. Các tiêu chí về thuận lợi thủ tục thị trường, chất lượng gỗ đều được các doanh nghiệp đánh giá cao đối với nguyên liệu gỗ nhập khẩu.

Bên cạnh các lợi thế trên của nguyên liệu nhập khẩu, thì loại nguyên liệu này hiện nay còn tồn tại không ít khó khăn, như giá thành cao, thị trường bấp bênh, nguồn cung không ổn định, rất khó khăn trong khâu vận chuyển về Việt Nam, thời gian vận chuyển kéo dài, chi phí cao. Vì thế một số doanh nghiệp có tỷ lệ sử dụng gỗ nguyên liệu nhập khẩu cao đang rất lao đao trong thời gian này. Một số doanh nghiệp đang dần chuyển đổi sang sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước để thay thế.

 

Hình 10: Đánh giá lợi thế của gỗ nguyên liệu nhập khẩu

 

2.1.3.    Ván nhập khẩu

  1. Lượng ván nhập khẩu

Hình 11: Tỷ lệ nhập khẩu ván theo các năm

Hình 11 cho thấy tỷ lệ nhập khẩu các loại ván tại các doanh nghiệp điều tra ít có sự biến động, phần lớn các doanh nghiệp có lượng nhập khẩu ván rất ít, chỉ dưới 1000m3/năm (chiếm tỷ lệ trên 80%). Năm 2020, 2021 lượng nhập khẩu ván ở mức 1000-5000m3/năm có tăng nhưng đều không vượt quá 11%.

Hình 12: Tổng lượng ván nhập khẩu theo năm

Hình 12 cho thấy tổng lượng ván nhập khẩu bình quân năm tại các doanh nghiệp điều tra nằm trong khoảng từ 8000m3 đến 18000m3. Lượng ván nhập khẩu bình quân này có xu thế tăng từ năm 2019-2021 (Hình 13)

Hình 13: Xu hướng lượng nguyên liệu ván nhập khẩu theo giá trị lớn nhất (max)

  1. Loại ván nhập khẩu chủ yếu

Trong các loại ván nhập khẩu, hiện nay ván MDF là loại ván có tỷ lệ nhập khẩu nhiều nhất vào Việt Nam, có 42% doanh nghiệp điều tra có nhập khẩu loại ván này để sản xuất các sản phẩm xuất khẩu thị trường EU. Các loại ván còn lại có tỷ lệ nhập khẩu ít hơn bao gồm ván dán (16%), ván dăm (16%), ván ghép thanh (11%) và các loại ván khác (14%) (Hình 14)

Theo kết quả khảo sát trực tiếp tại các doanh nghiệp, tỷ lệ ván MDF được phần lớn các doanh nghiệp nhập khẩu từ Malayxia, sử dụng để làm các sản phẩm yêu cầu kích thước lớn, chất lượng cao như mặt bàn ăn, mặt bàn bếp,  cánh tủ bếp, … . Các loại ván này khi sử dụng sẽ được phủ bên ngoài bởi lớp ván trang trí như ván lạng, ván phủ mặt, giấy dán, … vì thế loại ván này có tỷ lệ doanh nghiệp nhập cao hơn so với các loại ván khác.

Ván ghép thanh cũng là loại ván được sử dụng rất nhiều để sản xuất các sản phẩm gỗ xuất khẩu sang thị trường EU, tuy nhiên lượng nhập loại ván này ít là do phần lớn các doanh nghiệp (khảo sát trực tiếp) đều có dây truyền sản suất loại ván này phục vụ cho chính nhu cầu của sản phẩm của doanh nghiệp. Một lợi thế của loại ván này chủ yếu sử dụng loại gỗ keo trong nước, công nghệ sản xuất đơn giản, có thể tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu, có thể sản xuất ra những tấm ván có quy cách phù hợp với yêu cầu của sản phẩm. Đây là lý do lượng ván ghép thanh doanh nghiệp nhập khẩu chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ.

Hình 14: Loại ván nhập khẩu chủ yếu

  1. Đánh giá chất lượng ván nhập khẩu

Chất lượng ván nhập khẩu tốt hơn so với ván sản xuất trong nước, đáp ứng đầy đủ các tiêu chí bắt buộc của thị trường EU là hai tiêu chí có lần lượt là 34% và 30% doanh nghiệp khảo sát đánh giá cao. Đây là hai yếu tố hàng đầu quyết định đến việc chấp nhận nhập ván của các doanh nghiệp sản xuất SPG xuất khẩu sang thị trường EU. Ngoài ra sản phẩm ván nhập rất phong phú về chủng loại, có đầy đủ các các quy cách sản phẩm để doanh nghiệp lựa chọn sao cho đáp ứng được yêu cầu đơn hàng là tiêu chí có 19% doanh nghiệp khảo sát đánh giá cao. Các tiêu chí còn lại như thủ tục đơn giản, giá cả cạnh tranh, đảm bảo các tiêu chí về an toàn theo quy định của REACH cũng được các doanh nghiệp nhập khẩu ván quan tâm. (Hình 15

Kết quả này hoàn toàn phù hợp với kết quả khảo sát trực tiếp tại 16 doanh nghiệp, với các doanh nghiệp có nhập khẩu ván để sản xuất sản phẩm xuất khẩu sang thị trường EU, điều đầu tiên doanh nghiệp quan tâm là chất lượng ván nhập khẩu tốt hơn hẳn ván trong nước, có giá cạnh tranh hơn, thậm trí rẻ hơn so với ván sản xuất trong nước. Các loại ván nhập khẩu, đặc biệt ván MDF nhập khẩu từ Malaysia đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường EU như tiêu chuẩn E0 (E0 là mức độ thân thiện nhất với sức khỏe của người sử dụng. Nồng độ khí Formaldehyde gần như bằng 0).

Hình 15: Đánh giá chất lượng ván nhập khẩu

  • Một số phát hiện chính về gỗ nguyên liệu nhập khẩu

– Lượng nguyên liệu nhập khẩu sử dụng để sản xuất các sản phẩm xuất khẩu sang thị trường EU chiếm tỷ lệ khoảng 37% tổng lượng nguyên liệu doanh nghiệp sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu.

– Lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu không nhiều, chủ yếu là nhóm gỗ tròn, gỗ xẻ và ván (MDF) nhưng bắt buộc phải nhập khẩu là do nhiều mặt hàng, nhất là SPG ngoài trời yêu cầu chất lượng rất cao hoặc hoặc yêu cầu loại gỗ nguyên liệu nhập khẩu theo đơn đặt hàng của một số nước EU. Đây là điểm khá khác biệt so với các thị trường khác nên gây khó khăn cho việc sử dụng gỗ nguyên liệu trong nước thay thế.

– Khác với xu hướng chung của cả nước, xu hướng nhập khẩu gỗ nguyên liệu cho chế biến G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU vẫn tăng trong những năm tới là do yêu chất lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu ngày càng cao hơn rất nhiều so với chất lượng gỗ trong nước, yêu cầu gỗ có chứng chỉ quốc tế 100% cũng như thực thi các hiệp định đã ký với EU (EVFTA, FLEGT).

– Do ảnh hưởng của đại dịch covid, tình hình lạm phát tại Mỹ và các nước châu Âu gia tăng, giá xăng dầu thế giới leo thang, cùng với ảnh hưởng xung đột Nga – Ucraina đã tác động rất lớn đến nhu cầu mua sắm và thị hiếu tiêu dùng; Giá cước vận tải tăng rất mạnh, sức mua giảm, nhiều hàng tồn kho nên nhiều doanh nghiệp đối tác hủy hoặc kéo dài đơn hàng gây khó khăn cho doanh nghiệp trong nước trong sản xuất và xuất khẩu; Kinh tế khó khăn, người tiêu dùng châu Âu cũng có nhiều thay đổi theo hướng chuyển đổi sử dụng sản phẩm dùng nguyên liệu rẻ hơn nên chấp nhận những nguyên liệu thay thế trong nước để giảm chi phí và giá thành sản phẩm. Đây là những nhân tố tạo thuận lợi cho sử dụng gỗ nguyên liệu trong nước.

  •  Gỗ nguyên liệu trong nước
    • Tình hình chung

Từ kết quả thực hiện Chương trình tái cơ cấu ngành lâm nghiệp, các Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững trong thời gian qua; ngoài việc quản lý, bảo vệ tốt các diện tích rừng hiện có, nâng độ che phủ rừng lên 42,01% năm 2020, đã tạo được nguồn nguyên liệu rừng trồng ổn định, hợp pháp cho ngành chế biến gỗ; trong giai đoạn từ 2017-2021, sản lượng khai thác gỗ trong nước tăng trưởng ổn định, bình quân hơn 10% /năm[6] (Hình 16).

Nguồn nguyên liệu gỗ rừng trồng trong nước đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu nguyên liệu chế biến gỗ. Năm 2020, tổng nhu cầu gỗ nguyên liệu phục vụ ngành chế biến gỗ nước ta khoảng 38,5 triệu m3 gỗ quy tròn, trong đó: nguồn nguyên liệu gỗ khai thác trong nước ước đạt: 30 triệu m3, chiếm 75%, gồm: khai thác từ rừng trồng đạt 20,5 triệu m3; khai thác từ cây trồng phân tán và gỗ cao su khoảng 9,5 triệu m3; năm 2021 đạt 40,6 triệu m3 trong đó, khai thác trong nước đạt 32 triệu m3 (rừng trồng tập trung đạt 21,5 triệu m3, từ cây trồng phân tán và cao su 10,5 triệu m3). 100% gỗ nguyên liệu trong nước phục vụ ngành chế biến, có hồ sơ lâm sản hợp pháp, bảo đảm truy xuất được nguồn gốc gỗ hợp pháp theo quy định của pháp luật

Hình 16: Nguyên liệu trong nước giai đoạn 2017-2021

Nguồn: Thủ tướng chính phủ, 2022

Kết quả điều tra 46 doanh nghiệp cho thấy là tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu trong nước rất lớn, chiếm 90% số doanh nghiệp khảo sát, chỉ có 10% doanh nghiệp không sử dụng nguyên liệu trong nước cho sản xuất G&SPG xuất khẩu (Hình 17). Kết quả này hoàn toàn trùng khớp với kết quả khảo sát trực tiếp tại 16 doanh nghiệp, có 15/16 doanh nghiệp khảo sát trực tiếp có sử dụng nguyên liệu trong nước (gỗ keo, gỗ cao su, gỗ thông) cho sản xuất các sản phẩm xuất khẩu, trong đó gỗ keo được sử dụng phổ biến và lớn nhất trong doanh nghiệp chế biến gỗ hiện nay. Điều này cho thấy nguồn nguyên liệu trong nước đang dần đáp ứng tốt cho nhu cầu chế biến gỗ nói chung và chế biến gỗ xuất khẩu nói riêng.

Hình 17: Tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu trong nước

2.2.2.    Gỗ tròn, gỗ xẻ trong nước

  1. Lượng gỗ tròn gỗ xẻ trong nước

Biến động tỷ lệ sử dụng gỗ nguyên liệu trong nước trong 3 năm 2019, 2020, 2021 của các doanh nghiệp phỏng vấn thể hiện ở Bảng 7.

Bảng 7: Biến động tỷ lệ sử dụng gỗ nguyên liệu trong nước trong 3 năm của các doanh nghiệp chế biến

STT Khối lượng sử dụng gỗ trong nước bình quân/năm (m3/năm) Biến động theo tỷ trọng (%)
2019 2020 2021
1 Dưới 1000 46 41 40
2 1000-5000 27 34 33
3 Trên 5000 27 25 27

 

Lượng nguyên liệu gỗ tròn gỗ xẻ trong nước sử dụng bình quân hàng năm khoảng từ 20.000m3 đến 40.000m3. Lượng nguyên liệu này có xu hướng tăng từ năm 2019 đến năm 2021 (Hình 18).

Kết quả điều tra trực tiếp tại 16 doanh nghiệp cũng cho thấy, hiện nay các doanh nghiệp sử dụng chủ yếu là gỗ tròn, gỗ xẻ thu mua trong nước phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. Với các doanh nghiệp chế biến gỗ có quy mô vừa và nhỏ, lượng nguyên liệu gỗ tròn gỗ xẻ sử dụng bình quân hàng năm khoảng 25.000-30.000m3 gỗ nguyên liệu, với các doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn, lượng nguyên liệu này có thể vượt trên 30.000m3 gỗ mỗi năm.

Nguyên liệu gỗ tròn gỗ xẻ hiện nay các doanh nghiệp chủ yếu thu mua từ các doanh nghiệp chuyên về xẻ, sấy gỗ, các doanh nghiệp này thu mua gỗ từ các hộ dân trồng rừng, từ các doanh nghiệp lâm nghiệp, hoặc từ các đầu nậu gom gỗ, sau đó phân loại nguyên liệu để xẻ, sấy theo các quy cách khác nhau tùy thuộc vào tuổi cây và đường kính cây. Với mỗi loại nguyên liệu có đường kính, tuổi cây khác nhau sẽ có giá bán khác nhau.

Hiện nay do ảnh hưởng của nhiều yếu tố biến động như dịch covid, lạm phát cao tại Mỹ và EU, chiến tranh Nga – Ucraina nên các sản phẩm xuất khẩu đang có xu hướng chuyển dịch nguồn nguyên liệu, loại nguyên liệu. Khảo sát trực tiếp tại 16 doanh nghiệp đều cho rằng, các đối tác khách hàng hiện đang có xu thế muốn thay thế một số loại nguyên liệu đắt tiền trước đây sang sử dụng loại gỗ keo, nên nhu cầu về loại gỗ này có xu hướng tăng, làm gia tăng nhu cầu về lượng nguyên liệu trong nước. Kết quả này phù hợp với kết quả điều tra nhu cầu gỗ nguyên liệu trong nước ở Hình 19 về xu thế sử dụng nguyên liệu trong nước tăng dần trong 3 năm 2019-2021.

 

Hình 18: Lượng nguyên liệu gỗ tròn gỗ xẻ trong nước sử dụng bình quân theo các năm

 

Hình 19: Nhu cầu gỗ nguyên liệu trong nước trong 3 năm (2019-2021)

  1. Loại gỗ

Cơ cấu loại gỗ sử dụng: Gỗ keo là loại gỗ được sử dụng nhiều nhất tại các doanh nghiệp khảo sát, chiếm tỷ lệ 37%, tiếp đó là gỗ tràm chiếm tỷ lệ 21%, gỗ cao su là loại gỗ chiếm tỷ lệ sử dụng nhiều thứ 3 chiếm tỷ lệ là 16%, các loại gỗ còn lại như gỗ thông, bạch đàn, gỗ tếch và một số loại gỗ khác ít được sử dụng hơn để sản xuất các sản phẩm xuất khẩu sang thị trường EU. (Hình 20)

Hình 20: Cơ cấu loại nguyên liệu trong nước sử dụng sản xuất G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU

Có thể thấy gỗ keo là loại gỗ trong nước đóng vai trò chủ lực của các doanh nghiệp chế biến G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU. Có 70% doanh nghiệp điều tra có sử dụng loại gỗ này, chiếm tỷ lệ cao nhất trong các loại gỗ trong nước được khảo sát. (Hình 21)

Theo kết quả khảo sát trực tiếp tại các doanh nghiệp, gỗ keo được phần lớn (trên 90% doanh nghiệp khảo sát trực tiếp) sử dụng để sản xuất các mặt hàng ngoại thất, nội thất, sản xuất ván ghép thanh cho xuất khẩu đi thị trường EU, thị trường Mỹ. Đây là loại gỗ phổ biến và doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng nhiều nhất ở thời điểm hiện nay.

Loại gỗ đứng ở vị trí thứ 2 được 39% doanh nghiệp khảo sát lựa chọn sử dụng là gỗ Tràm. Kết quả khảo sát trực tiếp tại các doanh nghiệp cho thấy, gỗ tràm là loại gỗ được sử dụng phổ biến tại các doanh nghiệp phía Nam (từ Bình Dương trở vào), do đây là loại gỗ có chất lượng tốt, kích thước gỗ đảm bảo (đường kính gỗ lớn) cho sản xuất các sản phẩm nội thất, ngoại thất đòi hỏi kích thước gỗ lớn, chất lượng gỗ đồng đều. Tuy giá thành gỗ tràm có cao hơn gỗ keo nhưng vẫn được các doanh nghiệp phía nam lựa chọn.

Hai loại gỗ cao su và gỗ thông là hai loại gỗ cũng được lần lượt là 30% và 24% số doanh nghiệp khảo sát sử dụng. Tại 16 doanh nghiệp khảo sát trực tiếp cho thấy, hai loại gỗ này có thể đáp ứng được yêu cầu của một số ít khách hàng có nhu cầu sử dụng sản phẩm từ loại gỗ này, chủ yếu như các sản phẩm mỹ nghệ trang trí, bàn ghế sử dụng trong nhà, đồ chơi trẻ em, ….

Ngoài các loại gỗ keo, tràm, thông, cao su được nhiều doanh nghiệp lựa chọn sử dụng, số ít còn lại như gỗ bạch đàn, gỗ tếch và một số loại gỗ khác cũng có một số ít doanh nghiệp sử dụng (tỷ lệ chưa đến 10%) cho sản xuất các mặt hàng xuất khẩu sang thị trường EU.

Hình 21: Tỷ lệ sử dụng loại nguyên liệu trong nước sản xuất G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU

 

Hình 22: Đánh giá loại nguyên liệu trong nước có thể thay thế cho nguyên liệu nhập khâủ

Gỗ keo là nguyên liệu chiếm ưu thế số một tại các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu. Có 67% doanh nghiệp phỏng vấn cho rằng loại gỗ này hoàn toàn có thể thay thế cho nguyên liệu nhập khẩu (Hình 22), trong vài năm tới đây cây gỗ này sẽ là xu thế của ngành chế biến gỗ. Gỗ keo có thể được sử dụng để sản xuất hàng nội thất, ngoại thất xuất khẩu, sản xuất dăm, ván bóc, ván dán, ván ghép thanh, viên nén,… Với trữ lượng lớn, diện tích rừng trồng keo phủ khắp cả nước, đây sẽ là cây nguyên liệu có tiềm năng và tương lai có thể thay thế cho gỗ nhập khẩu. Tuy nhiên, hiện nay, các doanh nghiệp được khảo sát cho rằng trong tương lai nếu không có phương án quản lý tốt nguồn nguyên liệu này sẽ có nhiều bất cập như: chất lượng gỗ ngày càng giảm do giống bị thoái hóa, rừng trồng chủ yếu phân tán trong dân (trên 70% diện tích trồng rừng là trong dân) nên không có các giải pháp trồng, chăm sóc, quản lý và khai thác đồng bộ, gỗ bị khai thác ở tuổi chưa đủ thành thục (chủ yếu khai thác ở tuổi 4-6, bán làm nguyên liệu băm dăm, làm viên nén, ván bóc) nên chất lượng, đường kính nguyên liệu không đảm bảo cho sản xuất hàng xuất khẩu, giá trị nguyên liệu không cao là lý do người dân không còn mặn mà với trồng rừng gỗ lớn.

  1. Vùng nguyên liệu

Hình 23: Vùng gỗ nguyên liệu trong nước được các doanh nghiệp mua gỗ nguyên liệu

Vùng cung cấp nguyên liệu trong nước cho sản xuất chế biến G&SPG xuất khẩu được chia làm 3 vùng bắc, trung nam. Kết quả khảo sát cho thấy miền trung là nơi cung cấp nguyên liệu cho doanh nghiệp chế biến gỗ nhiều nhất cả nước, có 46% doanh nghiệp sử dụng gỗ tại vùng này. Miền nam là vùng cung cấp nguyên liệu cho doanh nghiệp nhiều thứ 2, có 29% doanh nghiệp sử dụng gỗ tại vùng này, còn miền bắc chiếm tỷ lệ ít hơn là 25% doanh nghiệp (Hình 23).

Kết quả này phù hợp với kết quả khảo sát trực tiếp tại các doanh nghiệp. Phần lớn nguồn cung cấp nguyên liệu tại miền Bắc (chủ yếu tập trung tại một số tỉnh như Tuyên Quang, Thái Nguyên, Yên Bái) hiện nay chỉ đủ để cung cấp cho các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu tại phía Bắc, mà tỷ lệ phân bố các doanh nghiệp này tại phía bắc ít hơn miền trung và miền nam, nên tỷ lệ các doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn nguyên liệu miền bắc là ít.

Miền Trung và Miền Nam là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu lớn nhất cả nước, vùng nguyên liệu tại miền trung cung cấp cho nhiều doanh nghiệp tại miền trung và miền nam do có nhiều loại nguyên liệu, số lượng lớn đáp ứng được nhu cầu sản xuất của doanh nghiệp, thuận lợi trong khâu vận chuyển nguyên liệu đến các nhà máy. Chất lượng nguyên liệu tại miền trung cũng được đánh giá đồng đều, gỗ có đường kính lớn, đảm bảo quy cách cho sản xuất các mặt hàng nội thất, ngoại thất xuất khẩu vì thế miền trung đang là vùng nguyên liệu có khả năng cung cấp lớn nhất cả nước.

Miền nam chủ yếu cung cấp nguyên liệu gỗ tràm, gỗ cao su cho các doanh nghiệp chế biến gỗ tại đây.

  1. Phân tích Lợi thế của gỗ nguyên liệu trong nước

Hình 24: Đánh giá lợi thế của gỗ nguyên liệu trong nước

Sẵn có, phù hợp với yêu cần sản xuất sản phảm xuất khẩu của doanh nghiệp là hai tiêu chí được các doanh nghiệp quan tâm đầu tiên khi lựa chọn nguyên liệu trong nước để sản xuất các sản phẩm xuất khẩu. Có 22% doanh nghiệp đánh giá nguyên liệu trong nước phù hợp với yêu cầu, 26% doanh nghiệp đánh giá nguyên liệu trong nước sẵn có, 19% doanh nghiệp cho rằng nguyên liệu trong nước có giá rẻ hơn so với nguyên liệu nhập khẩu, 17% doanh nghiệp đánh giá nguồn nguyên liệu trong nước ổn định (Hình 24).

Kết quả đánh giá này hoàn toàn phù hợp với kết quả khảo sát trực tiếp tại 16 doanh nghiệp. Nguyên liệu là vấn đề sống còn cho sản xuất chế biến gỗ nói chung, đối với sản xuất sản phẩm xuất khẩu thì việc nguồn nguyên liệu sẵn có, ổn định, phù hợp với nhu cầu sản xuất của doanh nghiệp là yếu tố đóng vai trò quan trọng, quyết định đến khả năng đáp ứng các đơn hàng xuất khẩu và năng lực sản xuất của doanh nghiệp. 16/16 doanh nghiệp khảo sát trực tiếp đều cho rằng, nguồn nguyên liệu gỗ trong nước, đặc biệt là loại gỗ keo hiện nay đáp ứng tốt cho nhu cầu sản xuất của các doanh nghiệp chế biến gỗ, nguồn gỗ tương đối dồi dào, sẵn có, giá rẻ hơn so với gỗ keo cùng loại nhập khẩu, nên gỗ keo hiện đang là xu thế của chế biến gỗ Việt Nam.

  1. Bất lợi của gỗ nguyên liệu trong nước

 

Hình 25: Đánh giá bất lợi của gỗ nguyên liệu trong nước

Bên cạnh những lợi thế của nguyên liệu trong nước như sẵn có, nguồn dồi dào, ổn định, đáp ứng được nhu cầu sản xuất đơn hàng xuất khẩu, thì nguyên liệu trong nước còn tồn tại những bất lợi, làm cho nguồn nguyên liệu này chưa phát huy được hết thế mạnh của mình trong sản xuất (Hình 25).

Một trong những bất lợi được các doanh nghiệp đánh giá nhiều nhất (23%) là lượng nguyên liệu có đầy đủ chứng chỉ theo yêu cầu (FSC, PEFC, …) mới chỉ có ở một số vùng/ loại nguyên liệu, điều này gây cản trở trong việc cung cấp đầy đủ hồ sơ đảm bảo theo yêu cầu của khách hàng, không đáp ứng được yêu cầu về nguyên liệu cho sản xuất mặt hàng xuất khẩu sang thị trường EU. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả khảo sát trực tiếp tại 16 doanh nghiệp. 15/16 doanh nghiệp khảo sát trực tiếp có sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước đều cho rằng nguồn nguyên liệu gỗ trong nước (đặc biệt là gỗ keo) thực tế hiện nay có đủ khả năng để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất các sản phẩm nội và ngoại thất xuất khẩu, nhưng rào cản lớn nhất để hạn chế việc sử dụng loại nguyên liệu này là chứng chỉ FSC mới chỉ có ở một số vùng nguyên liệu, mà đây là yêu cầu bắt buộc với nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu EU. Doanh nghiệp sẵn sàng chi trả giá cao hơn để mua được nguyên liệu có đầy đủ chứng chỉ, đảm bảo đầy đủ các hồ sơ thủ tục pháp lý cung cấp cho đối tác.

Hạn chế thứ 2 của nguyên liệu trong nước thu được từ kết quả khảo sát trực tiếp tại 16 doanh nghiệp cho thấy, tỷ lệ lợi dụng gỗ nguyên liệu trong nước còn chưa cao, đối với gỗ keo có đường kính từ 16-17cm trở lên, nếu như từ gỗ tròn ra gỗ xẻ, tỷ lệ lợi dụng gỗ đạt khoảng 56-57% thì từ gỗ xẻ ra sản phẩm tinh chế, tỷ lệ lợi dụng gỗ chỉ còn khoảng 27-31%. Hạn chế này có thể do nhiều nguyên nhân như công nghệ gia công chế biến sản phẩm gỗ của các doanh nghiệp chưa cao; kỹ thuật tay nghề của công nhân còn nghiều hạn chế; cán bộ kỹ thuật chưa tìm ra giải pháp sử dụng/ tận dụng tối đa nguyên liệu như sử dụng nguyên liệu có quy cách, chất lượng khác nhau vào những sản phẩm phù hợp; cũng có thể do chủng loại sản phẩm sản xuất của doanh nghiệp chưa có nhiều, đủ phong phú để có cơ hội tận dụng tối đa nguyên liệu; do bản thân nguyên liệu có nhiều khuyết tật như thân cong, nhiều mắt, dễ nứt, …

Hạn chế thứ 3 của nguyên liệu trong nước hiện nay là chủng loại nguyên liệu đáp ứng nhu cầu sản xuất sản phẩm xuất khẩu còn chưa phong phú. Hiện nay ngoài gỗ keo có diện tích trồng rừng lớn, có thể cung cấp lượng gỗ nguyên liệu đủ cho sản xuất nhưng lại chưa đáp ứng được nhu cầu về độ tuổi khai thác, đường kính gỗ theo yêu cầu. Gỗ keo hiện nay chủ yếu khai thác ở độ tuổi 5-6 tuổi phục vụ tốt cho nhu cầu sản xuất dăm gỗ, ván bóc, viên nén, trong khi đó độ tuổi khai thác cho sản xuất các sản phẩm nội thất, ngoại thất là từ 8-9 tuổi trở lên, đường kính khúc gỗ trung bình đạt từ 16-17cm trở lên nên chưa đáp ứng tốt cho nhu cầu sản xuất sản phẩm nội ngoại thất xuất khẩu. Chính vì vậy giá trị của nguyên liệu gỗ keo trong nước chưa cao. Còn về các loại cây khác như gỗ thông, gỗ cao su, gỗ tếch, gỗ bạch đàn hiện nay vẫn đang ở mức độ tận dụng nguồn nguyên liệu này chứ chưa có rừng trồng chính thức cung cấp cho chế biến gỗ.

2.2.3.    Ván nguyên liệu trong nước

Nhìn vào Hình 26 có thể thấy, tỷ lệ ván trong nước sử dụng cho các sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp khảo sát chủ yếu ở mức dưới 1000m3/năm (chiếm trên 70% doanh nghiệp khảo sát), và tỷ lệ này biến đổi không nhiều trong ba năm gần đây.

Hình 26: Tỷ lệ sử dụng nguyên liệu ván trong nước theo các năm

Lượng ván trong nước sử dụng sản xuất sản phẩm xuất khẩu bình quân hàng năm nằm trong khoảng từ 7000-10.000m3 (Hình 27), đây là lượng rất nhỏ so với lượng nguyên liệu gỗ tròn gỗ xẻ sử dụng bình quân năm cho các mặt hàng này. Kết quả này phù hợp với khảo sát trực tiếp tại doanh  nghiệp, các đơn hàng xuất khẩu sang thị trường EU thường sử dụng rất ít các loại ván nhân tạo, do thị hiếu của người dân các nước EU ưa chuộng các sản phẩm thiên nhiên, an toàn. Các loại ván nhân tạo chủ yếu sử dụng ở các kết cấu như mặt bàn, mặt kệ, mặt tủ của sản phẩm nội thất, lượng này sử dụng không nhiều. Một lý do khác nữa, như đã phân tích ở phần ván nhập khẩu, các chi tiết cần kích thước lớn của sản phẩm phần lớn sử dụng ván ghép thanh, mà loại ván này thì phần lớn doanh nghiệp chế biến gỗ đều có dây truyền để tự sản xuất, phục vụ nhu cầu của mình, nên lượng ván trong nước các doanh nghiệp mua để sử dụng sản xuất sản phẩm xuất khẩu là rất ít.

Hình 27: Lượng nguyên liệu ván trong nước sử dụng theo các năm

  • Một số phát hiện chính về gỗ nguyên liệu trong nước

– Lượng gỗ nguyên liệu trong nước sử dụng để sản xuất G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU có xu hướng tăng qua các năm và hiện nay vào khoảng 63% lượng gỗ nguyên liệu. Đây là bức tranh khá tích cực trong việc sử dụng gỗ nguyên liệu trong nước.

– Các loại gỗ keo, gỗ cao su, gỗ thông và gỗ tràm là 4 loại gỗ được các doanh nghiệp đánh giá rất cao về chất lượng, số lượng, tính ổn định có thể đáp ứng được cho nhu cầu về nguyên liệu sản xuất các sản phẩm xuất khẩu nói chung và xuất khẩu sang thị trường EU nói riêng. Nhất là gỗ keo hoàn toàn có thể thay thế cho gỗ nhập khẩu. Gỗ tràm, gỗ thông và gỗ cao su cũng có thể thay thế cho gỗ nhập khẩu nếu đảm bảo đủ về mặt số lượng, có công nghệ xử lý phù hợp. Đây cũng là tín hiệu tích cực đối với một số loại gỗ trong nước cho chế biến sản phẩm xuất khẩu.

– Giá gỗ nguyên liệu nhập khẩu tăng cùng với kinh tế khó khăn người tiêu dùng châu Âu cũng có nhiều thay đổi theo hướng chuyển đổi sử dụng sản phẩm dùng nguyên liệu rẻ hơn nên chấp nhận những nguyên liệu thay thế trong nước để giảm chi phí và giá thành sản phẩm. Đây là những nhân tố tạo thuận lợi cho sử dụng gỗ nguyên liệu trong nước.

– Chất lượng gỗ nguyên liệu trong nước có xu hướng giảm trong 5 năm trở lại đây như gỗ nhiều mắt, gỗ non, quy cách nhỏ, không đồng đều, gỗ được thu gom từ khai thác rừng trồng manh mún, thiếu chăm sóc; gỗ đưa vào chế biến thường được chọn lọc nhưng cây gỗ lớn (khoảng 20-25%) từ các diện tích rừng trồng gỗ nhỏ cho sản xuất dăm. Đây là điểm hạn chế của gỗ nguyên liệu đưa vào chế biến G&SPG xuất khẩu nói chung và sang thị trường EU nói riêng.

– Thiếu quy hoạch và đầu tư vào kênh từ khai thác, sơ chế, sấy gỗ nguyên liệu nên chất lượng nguồn nguyên liệu này chưa đảm bảo, chưa sử dụng hết tiềm năng của loại gỗ này.

– Do sự phát triển ồ ạt của các doanh nghiệp chế biến dăm xuất khẩu, sản xuất viên nén gỗ gia tăng, lại không có giải pháp quản lý nguồn nguyên liệu nên hiện nay có sự cạnh tranh rất lớn nguyên liệu gỗ keo cho sản xuất, dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thu mua gỗ nguyên liệu.

  1. Dự báo nhu cầu gỗ nguyên liệu cho chế biến G&SPG xuất khẩu giai đoạn 2022-2030

3.1.          Nhu cầu về số lượng

Trong những năm qua, ngành công nghiệp chế biến gỗ nước ta đã có những đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế của cả nước, là ngành hàng xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng cao, bình quân đạt trên 15%/năm. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu G&SPG năm 2017 đạt trên 7,7 tỷ USD, về đích trước 3 năm so với chỉ tiêu của Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam, giai đoạn 2006 – 2020. Năm 2020, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu ngành công nghiệp chế biến gỗ đạt 12,3 tỷ USD tăng 16,1% so với năm 2019, chiếm 30% giá trị xuất khẩu của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, dự báo trong những năm tới, giá trị xuất khẩu của ngành tiếp tục tăng cao, phấn đấu đến năm 2025 đạt trên 18 tỷ USD (Bảng 8,Hình 28) (Thủ tướng Chính Phủ, 2022)

Bảng 8: Giá trị xuất khẩu G&SPG giai đoạn 2017-2021 và dự báo tăng trưởng giá trị xuất khẩu giai đoạn 2022-2030

Năm Giá trị xuất khẩu gỗ (triệu USD) Giá trị xuất khẩu SPG (triệu USD) Tổng giá trị xuất khẩu, triệu USD
2017 1.951 5.708 7.659
2018 2.606 6.303 8.909
2019 2.892 7.783 10.675
2020 9.262 3.008 12.270
2021 10.744 3.098 13.842
2022 12.033 3.160 15.193
2023 13.237 3.207 16.444
2024 14.428 3.239 17.667
2025 15.366 3.255 18.621
2026 16.310 3.270 19.580
2027 17.260 3.290 20.550
2028 18.210 3.300 21.510
2029 19.160 3.320 22.480
2030 20.110 3.330 23.440
       

Nguồn: Thủ tướng Chính Phủ. 2022

 

Nguồn: Thủ tướng Chính Phủ. 2022

Hình 28: Giá trị xuất khẩu G&SPG giai đoạn 2017-2021 và dự báo tăng trưởng giá trị xuất khẩu giai đoạn 2022-2030

Về nguồn cung nguyên liệu gỗ: Theo số liệu thống kê tại Đề án phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ bền vững. hiệu quả giai đoạn 2021 – 2030 cho thấy. giai đoạn 2017-2020 tổng nhu cầu nguyên liệu gỗ cả nước khoảng trên 35 triệu m3. nguồn nguyên liệu này đến từ 2 nguồn là nguyên liệu nhập khẩu và nguyên liệu trong nước.

Bảng 9 cho thấy tỷ lệ giữa nguyên liệu trong nước và nguyên liệu nhập khẩu trong giai đoạn 2017-2020 bình quân là 77.44% nguyên liệu trong nước 22.56% nguyên liệu nhập khẩu. Tỷ lệ này ít biến động trong giai đoạn này. cho thấy lượng nguyên liệu trong nước đang đáp ứng tốt nhu cầu chế biến gỗ nói chung và chế biến gỗ xuất khẩu nói chung của cả nước.

 

 

 

 

 

 

Bảng 9: Nguồn cung gỗ nguyên liệu giai đoạn 2017-2021

Năm Gỗ nhập khẩu Gỗ trong nước  

  Tổng lượng gỗ (triệu m3)

Số lượng

(triệu m3)

Tỷ lệ.% Số lượng

(triệu m3)

Tỷ lệ.%
Năm 2016 7,30 23,10 24,30 76,90 31,60
Năm 2017 7,60 22,29 26,50 77,71 34,10
Năm 2018 8,40 23,40 27,50 76,60 35,90
Năm 2019 8,50 23,29 28,00 76,71 36,50
Năm 2020 8,50 22,08 30,00 77,92 38,50
Năm 2021 8,60 21,18 32,00 78,82 40,60
Trung bình 22,56 77,44

Nguồn: Thủ tướng Chính Phủ, 2022

 

  • Dự báo nhu cầu lượng gỗ nguyên liệu cho chế biến G&SPG xuất khẩu

Để dự báo được nhu cầu nguyên liệu cho chế biến G&SPG xuất khẩu trong giai đoạn 2022-2030, nhóm nghiên cứu tiến hành phân tích tương quan giữa lượng nguyên liệu (Y, triệu m3) với Giá trị xuất khẩu (X, triệu USD) (Bảng 8) trong giai đoạn 2017-2020 cho thấy có mối quan hệ chặt với hệ số tương quan R2=0,967 (F=88,168, Sig, F=0,003), Phương trình tương quan được xác lập là Y=26,58+0,001X, Mối tương quan này được biểu diễn như Hình 29,

 

Hình 29: Phân tích tương quan giữa lượng nguyên liệu và giá trị xuất khẩu

Trên cơ sở phương trình tương quan này, dự báo nhu cầu về lượng nguyên liệu cho sản xuất G&SPG các năm tại cột 6, Bảng 10,

Lượng nguyên liệu trong nước và lượng nguyên liệu nhập khẩu được tính theo tỷ lệ bình quân lượng nguyên liệu này trên tổng lượng nguyên liệu cả nước trong giai đoạn 2017-2021, Cụ thể, lượng nguyên liệu trong nước bình quân chiếm 77,44% (cột 8) và nguyên liệu nhập khẩu chiếm 22,56% (cột 7)  tổng lượng nguyên liệu,

Bảng 10: Dự báo nhu cầu nguyên liệu giai đoạn 2022-2030

 

Năm Giá trị xuất khẩu (triệu USD) Lượng gỗ cần hiện nay

(triệu m3)

Dự báo nhu cầu gỗ (triệu m3) Tỷ lệ tăng ( %)
Tổng lượng gỗ Gỗ nhập khẩu Gỗ trong nước Tổng lượng Gỗ Gỗ nhập khẩu Gỗ trong nước    
1 2 3 4 5 6 7 8 9  
2017 7658,7 34,10 7,3 24,3        
2018 8908,9 35,90 7,6 26,5       5,28  
2019 10675 36,50 8,4 27,5       1,67  
2020 12270 38,5 8,5 28       5,48  
2021 13842 40,6 8,6 32       5,45  
2022 15193       41,8 9,42 32,35 2,89  
2023 16444       43,0 9,71 33,32 2,99  
2024 17667       44,2 9,98 34,26 2,84  
2025 18621       45,2 10,20 35,00 2,16  
2026 19580       46,2 10,41 35,75 2,12  
2027 20544       47,1 10,63 36,49 2,09  
2028 21510       48,1 10,85 37,24 2,05  
2029 22474       49,1 11,07 37,99 2,00  
2030 23433       50,0 11,28 38,73 1,95  

Như vậy, trong giai đoạn từ năm 2022-2030, nhu cầu về nguyên liệu cho sản xuất G&SPG xuất khẩu của nước ta vào khoảng từ 41,89 triệu m3 đến 50 triệu m3, Tỷ lệ tăng bình quân hằng năm khoảng từ 1,95%-2,99%, Trong đó nguyên liệu nhập khẩu bình quân cần khoảng 9,42-11,28 triệu m3/năm, nguyên liệu trong nước cần khoảng 32,35-38,73 triệu m3/năm,

  • Dự báo nhu cầu lượng gỗ nguyên liệu cho chế biến G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU

Số liệu giá trị xuất khẩu sang thị trường EU của cả nước trong mấy năm gần đây được tổng hợp như Bảng 11 (Thủ tướng Chính Phủ, 2022):

 

Bảng 11: Giá trị xuất khẩu G&SPG giai đoạn 2017-2021

 

Năm Cả nước (triệu USD) EU (triệu USD) EU chiếm tỷ lệ,%
2017 7659 739 9,65
2018 8909 785 8,81
2019 10652 864 8,11
2020 12372 536 4,33
2021 13842 597 4,31

Nguồn: Thủ tướng Chính Phủ, 2022

Có thể thấy, trong những năm gần đây, giá trị xuất khẩu G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU chiếm một phần nhỏ trong tổng giá trị xuất khẩu của cả nước (khoảng từ 4-10%), kết quả khảo sát tại các doanh nghiệp cũng cho kết quả tương tự, mặc dù tỷ lệ xuất khẩu sang thị trường EU của doanh nghiệp chiếm trung bình khoảng từ 25-50%, nhưng giá trị xuất khẩu sang thị trường EU chỉ chiếm khoảng 10% doanh số, Dự báo trong giai đoạn 2021-2025 các đơn hàng xuất khẩu sang thị trường EU có tăng, nhưng tỷ lệ tăng không nhiều, chỉ khoảng 10% (Hình 30), Do đó nhu cầu về nguyên liệu cho thị trường này chiếm khoảng 10% tổng lượng nguyên liệu cả nước,

Hình 30: Dự báo giá trị xuất khẩu sang thị trường EU của doanh nghiệp khảo sát

Trên cơ sở phân cấp 5 mức về tỷ lệ sử dụng nguyên liệu nhập khẩu trên tổng lượng nguyên liệu để sản xuất G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU (dưới 10%, 11-25%, 26-50%, 51-75%, trên 75%), cùng với tần suất điều tra ở các công ty ứng với từng mức, nghiên cứu đã xác định được giá trị trung bình là 2,67 tương ứng với mức 3 (từ 26%-50%), Với giá trị trung bình tính được nội suy ra lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu (bình quân trong những năm gần đây) chiếm tỷ lệ khoảng 37% trong tổng số nguyên liệu mà các công ty sử dụng để sản xuất G&SPG sang thị trường EU, Kết quả này phù hợp với thực tế đặc thù của các mặt hàng xuất khẩu sang thị trường EU yêu cầu sử dụng lượng nguyên liệu nhập khẩu lớn hơn so với các đơn hàng xuất khẩu sang thị trường khác như Mỹ, Úc, Hàn, Nhật,… Do đó, dự báo lượng nguyên liệu nhập khẩu cần để sản xuất G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU tính bình quân bằng 37% tổng nhu cầu nguyên liệu, lượng nguyên liệu trong nước cần khoảng 63% tổng nhu cầu lượng nguyên liệu, Kết quả dự báo nhu cầu lượng nguyên liệu cho sản xuất G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU như Bảng 12

Bảng 12: Dự báo nhu cầu gỗ nguyên liệu sản xuất G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU giai đoạn 2022-2030

 

Năm Tổng lượng gỗ (triệu m3) Gỗ nhập khẩu

(triệu m3)

Gỗ trong nước

(triệu m3)

1 2 3 = cột2x0,37 4= cột2x0,63
2022 4,18 1,55 2,63
2023 4,30 1,59 2,71
2024 4,42 1,64 2,79
2025 4,52 1,67 2,85
2026 4,62 1,71 2,91
2027 4,71 1,74 2,97
2028 4,81 1,78 3,03
2029 4,91 1,81 3,09
2030 5,00 1,85 3,15
Tổng cả giai đoạn: 41,47 15,34 26,13
Bình quân năm 4,61 1,70 2,90

3.2.  Nhu cầu về loại gỗ, chất lượng, tính hợp pháp của nguyên liệu

– Nhu cầu về loại gỗ:

Trong thực trạng nguồn gỗ nhập khẩu gặp nhiều khó khăn, để đảm bảo lợi nhuận, duy trì sản xuất và phát triển trong tương lai thì tìm nguồn nguyên liệu trong nước thay thế cho các nguyên liệu nhập khẩu là phương án tối ưu cho các doanh nghiệp chế biến gỗ hiện nay, Kết quả nghiên cứu cho thấy, có trên 70% doanh nghiệp mong muốn và có nhu cầu sử dụng gỗ keo, 47% doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng gỗ tràm, và 44% doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng gỗ cao su cho các đơn hàng sản xuất trong tương lai (Hình 31), Kết quả này cũng phù hợp với mong muốn của các doanh nghiệp khảo sát thực tế, Các doanh nghiệp này cho rằng, gỗ keo sẽ trở thành xu thế trong tương lai, là loại gỗ có thể thay thế cho các loại gỗ nhập khẩu, vì vậy nhu cầu về loại gỗ này của các doanh nghiệp chế biến gỗ rất lớn, sức cạnh tranh khốc liệt không chỉ trong ngành chế biến gỗ, mà còn phải cạnh tranh nguyên liệu này với ngành sản xuất dăm, ván dăm, ván bóc và viên nén, Vì thế cần có chiến lược cụ thể phát triển nguồn nguyên liệu này một cách phù hợp,

Hình 31: Nhu cầu về loại gỗ nguyên liệu sử dụng

– Nhu cầu về chất lượng gỗ:

Kết quả khảo sát trực tiếp các doanh nghiệp đều cho rằng cần quy hoạch phát triển nguồn nguyên liệu ổn định cho chế biến gỗ, cũng như tăng cường trồng rừng nguyên liệu gỗ lớn, đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho ngành chế biến và xuất khẩu gỗ đang tăng trưởng ở mức cao, Nhu cầu gỗ nguyên liệu cho chế biến sản phẩm gỗ xuất khẩu phải có đường kính từ 17cm trở lên, tương đương với độ tuổi từ 8 tuổi trở lên,

– Nhu cầu về tính hợp pháp của nguyên liệu gỗ:

Ngành gỗ đang cần có thêm vùng nguyên liệu có đầy đủ hồ sơ, chứng chỉ hợp pháp và các trung tâm sơ chế quy mô lớn: Việt Nam xuất khẩu nhiều G&SPG, nhưng trên cả nước chưa có các vùng nguyên liệu gỗ lớn, chưa có các trung tâm sơ chế quy mô lớn đủ sức đáp ứng các mục tiêu tăng trưởng mới, Nhiều doanh nghiệp ngành gỗ đang phải tính toán lại chuỗi sản xuất để ứng phó với thực trạng giá nguyên liệu tăng cao, Vùng nguyên liệu có chứng chỉ còn ít, Gỗ nhập khẩu phải đảm bảo 100% gỗ sạch, Các thị trường chính Việt Nam nhập khẩu gỗ nguyên liệu gồm: Các nước có nguồn nguyên liệu có tính pháp lý cao như Hoa Kỳ, Chile, New Zeland, các nước EU và từ các nước có rủi ro cao như Lào, Campuchia, châu Phi,,, Do đó, việc lựa chọn thị trường gỗ nhập khẩu 100% gỗ sạch là một thách thức với doanh nghiệp,

  • Một số kết luận về nhu cầu gỗ nguyên liệu cho chế biến G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU

– Bối cảnh chung về kinh tế, xung đột, dịch bệnh cho dự báo rằng các đơn hàng nhập khẩu G&SPG từ các nước EU tăng chậm ảnh hưởng đến việc chế biến xuất khẩu các sản phẩm G&SPG của Việt Nam sang thị trường EU, Các doanh nghiệp chế biến đang nhận được đơn hàng rất lớn từ các thị trường khác, nhất là Mỹ với những yêu cầu ít khắt khe hơn thị trường châu Âu, Có thể dự báo, trong những năm tới, sản xuất G&SP gỗ xuất khẩu sang thị trường EU của các doanh nghiệp Việt Nam tăng không nhiều, vào khoảng 10%, do đó nhu cầu gỗ nguyên liệu cho chế biến G&SPG tăng không nhiều, cũng vào khoảng 10%,,

– Xu hướng sử dụng gỗ nguyên liệu trong nước sẽ tăng, tỷ trọng gỗ nhập khẩu sẽ giảm cho chế biến G&SPG xuất khẩu, chỉ nhập khẩu loại gỗ theo yêu cầu ghi trong đơn hàng,

– Trong giai đoạn từ năm 2022-2030: nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất G&SPG xuất khẩu tới các thị trường từ 41,89 triệu m3 đến 50 triệu m3/năm, Tỷ lệ tăng bình quân hằng năm khoảng từ 1,95%-2,99%, Trong đó nguyên liệu nhập khẩu bình quân cần khoảng 9,42-11,28 triệu m3/năm, nguyên liệu trong nước cần khoảng 32,35-38,73 triệu m3/năm, ; nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất G&SPG xuất khẩu sang EU trong cả giai đoạn là 41,47 triệu m3, bình quân cần 4,61 triệu m3/năm, trong đó hằng năm cần nhập 1,7 triệu m3 và cần gỗ trong nước 2,9 triệu m3,

– Gỗ nguyên liệu hợp pháp cho chế biến G&SPG sẽ được kiểm soát chặt chẽ bởi thực hiện hiệp định EVFTA và FLEGT trên phạm vi EU và Việt Nam, và còn được kiểm soát theo quy định của từng quốc gia trong EU,

4.  Chính sách ưu đãi, hỗ trợ chế biến G&SPG  xuất khẩu

  • Các chính sách ưu đãi, hỗ trợ các doanh nghiệp chế G&SPG

Ngoài các chính sách chung đối với các doanh nghiệp, các chính sách đặc thù đối với các doanh nghiệp chế biến gỗ tập trung chủ yếu ở các văn bản sau:

  • Chính sách đất đai

Chính sách ưu đãi, hỗ trợ về đất đai đối với các doanh nghiệp theo Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 của Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích Công ty đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn (NĐ 57/2018/NĐ-CP), được quy định cụ thể như sau:

– Về miễn, giảm tiền thuê đất của Nhà nước: được quy định tại Điều 6, NĐ 57/2018/NĐ-CP theo đó các doanh nghiệp có dự án nông nghiệp ưu đãi đầu tư, khuyến khích đầu tư sẽ được miễn hoặc giảm tiền thuê đất với các mức và thời gian cụ thể từ miễn hoàn toàn đến giảm 50% trong các khoảng thời gian nhất định;

– Về hỗ trợ tập trung đất đai được quy định tại Điều 7 NĐ 57/2018/NĐ-CP, theo đó, doanh nghiệp có dự án nông nghiệp (đặc biệt ưu đãi đầu tư, ưu đãi đầu tư và khuyến khích đầu tư) nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân để hình thành vùng nguyên liệu được Nhà nước hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng vùng nguyên liệu với mức hỗ trợ 50 triệu đồng/ha, nhưng không quá 10 tỷ đồng/dự án và không phải chuyển sang thuê đất đối với diện tích đất nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất; đồng thời, khuyến khích doanh nghiệp sử dụng đất nông nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản xây dựng các nhà máy chế biến nông sản, cơ sở hạ tầng đi kèm (kho chứa, trụ sở, đường nội bộ, hệ thống xử lý chất thải),

  • Chính sách tín dụng

Chính sách tín dụng cho các doanh nghiệp được quy định theo Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn  (NĐ 55/2015/NĐ-CP ) và Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày 7/9/2018 của Chính phủ về việc sửa đổi bổ sung một số điều NĐ 55/2015/NĐ-CP, Những chính sách này tập trung hỗ trợ doanh nghiệp vào 2 nội dung sau:

– Hỗ trợ tín dụng khuyến khích sản xuất theo mô hình liên kết được quy định tại: Điều 8 NĐ NĐ 57/2018/NĐ-CP, Điều 14 NĐ 55/2015/NĐ-CP, theo đó:

+ Điều 8, NĐ NĐ 57/2018/NĐ-CP doanh nghiệp có dự án đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn được ngân sách địa phương hỗ trợ lãi suất vay thương mại sau khi dự án hoàn thành với mức hỗ trợ: Bằng chênh lệch lãi suất vay thương mại so với lãi suất tín dụng nhà nước ưu đãi đầu tư tính trên số dư nợ thực tế tại thời điểm xem xét hồ sơ hỗ trợ; Thời gian hỗ trợ lãi suất tối đa  từ 05 đến 08 năm tùy thuộc loại dự án và 8 năm đối với doanh nghiệp nông nghiệp vừa và nhỏ mới thành lập; Hạn mức vay vốn được hỗ trợ lãi suất: Tối đa không quá 70% tổng mức đầu tư của dự án,

+ Điều 14, NĐ 55/2015/NĐ-CP các doanh nghiệp liên kết với tổ chức, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp sẽ được tổ chức tín dụng xem xét cho vay không có tài sản bảo đảm tối đa từ 70% đến 80% giá trị của dự án, phương án vay theo mô hình liên kết,

– Chính sách tín dụng khuyển khích sản xuất ứng dụng công nghệ cao được quy định tại Điều 15,  NĐ 55/2015/NĐ-CP và khoản 8 Điều 1, NĐ 116/2018/NĐ-CP, Theo đó các doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao hoặc  doanh nghiệp có dự án, phương án sản xuất kinh doanh ứng dụng công nghệ cao được tổ chức tín dụng cho vay không có tài sản bảo đảm tối đa từ 70% đến 80% giá trị của dự án, phương án đó,

  • Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng

Hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đói với các doanh nghiệp được thực hiện theo NĐ 57/2018/NĐ-CP, Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 5/7/2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp (NĐ 98/2018/NĐ-CP), Quyết định số 38/2016/QĐ-TTg ngày 14/9/2016  của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách bảo vệ, phát triển rừng và đầu tư hỗ trợ kết cấu hạ tầng, giao nhiệm vụ công ích đối với các công ty nông lâm nghiệp (QĐ 38/2016/QĐ-TTg), Các quy định tập trung vào:

– Hỗ trợ XD nhà máy chế biến ở huyện nghèo được quy định tại điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 14,  QĐ 38/2016/QĐ-TTg, Theo đó, nhà đầu tư trong nước có dự án đầu tư nhà máy chế biến gỗ rừng trồng; tre công nghiệp tại các tỉnh Tây Bắc, Tây nguyên và các tỉnh có huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP được hỗ trợ từ 10 tỷ đến 20 tỷ đồng/nhà máy,

– Chính sách hỗ trợ xây dựng hạ tầng phục vụ liên kết được quy định tại Điều 8, NĐ 98/2018/NĐ-CP, Theo đó, dự án liên kết được ngân sách nhà nước hỗ trợ 30% vốn đầu tư máy móc trang thiết bị; xây dựng các công trình hạ tầng phục vụ liên kết, tổng mức hỗ trợ không quá 10 tỷ đồng,

– Chính sách hỗ trợ đầu tư cơ sở bảo quản, chế biến gỗ, sản xuất sản phẩm phụ trợ được quy định tại Điều 11, NĐ 57/2018/NĐ-CP, Theo đó, doanh nghiệp có dự án đầu tư cơ sở chế biến nông sản hỗ trợ cơ sở chế biến nông sản 60% kinh phí đầu tư và không quá 15 tỷ đồng/dự án để xây dựng cơ sở hạ tầng về xử lý chất thải, giao thông, điện, nước, nhà xưởng và mua thiết bị trong hàng rào dự án; Doanh nghiệp có dự án đầu tư cơ sở bảo quản nông sản (sấy) được ngân sách nhà nước hỗ trợ 70% chi phí đầu tư nhưng không quá 02 tỷ đồng/dự án để xây dựng cơ sở hạ tầng về giao thông, điện, nước, xử lý chất thải, nhà xưởng và mua thiết bị,

  • Chính sách phát triển năng lực sản xuất

Chính sách hỗ trợ để phát triển năng lực sản xuất theo NĐ 57/2018/NĐ-CP, NĐ 98/2018/NĐ-CP, tập trung vào:

– Hỗ trợ tư vấn xây dựng liên kết được quy định tại Điều 7, NĐ 98/2018/NĐ-CP, Theo đó, chủ trì liên kết được ngân sách nhà nước hỗ trợ 100% chi phí tư vấn xây dựng liên kết, tối đa không quá 300 triệu đồng

– Hỗ trợ áp dụng quy trình và quản lý chất lượng đồng bộ theo chuỗi được quy định tại Điều 9,  NĐ 98/2018/NĐ-CP, Theo đó, các bên tham gia liên kết được ngân sách nhà nước hỗ trợ theo các chương trình, dự án để đào tạo nghề, tập huấn kỹ thuật, nâng cao nghiệp vụ quản lý, phát triển thị trường,

– Hỗ trợ nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng công nghệ cao được quy định tại Khoản 1 Điều 9,  NĐ 57/2018/NĐ-CP, Theo đó, Hỗ trợ doanh nghiệp nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng nông nghiệp công nghệ 80% kinh phí thực hiện, nhưng không quá 300 triệu đồng/đề tài/bản quyền/công nghệ,

– Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực được quy định tại điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 10, NĐ 57/2018/NĐ-CP, Theo đó, hỗ trợ cho doanh nghiệp trực tiếp đào tạo nghề cho lao động với mức 02 triệu đồng/tháng/lao động, thời gian hỗ trợ 03 tháng,

  • Chính sách phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm

Chính sách này được quy định tại NĐ 57/2018/NĐ-CP và QĐ 38/2016/QĐ-TTg, cụ thể như sau:

– Hỗ trợ phát triển thị trường (quảng cáo, xây dựng thương hiệu; xây dựng và quản lý trang thông tin “chợ nông sản”, …) được quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều 10,  57/2018/NĐ-CP, theo đó, hỗ trợ 50% chi phí quảng cáo, xây dựng thương hiệu sản phẩm chủ lực quốc gia và cấp tỉnh; 50% kinh phí tham gia triển lãm hội chợ trong nước, ngoài nước được cấp có thẩm quyền phê duyệt; hỗ trợ một doanh nghiệp xây dựng và quản lý một trang thông tin điện tử “Chợ nông sản quốc gia” là 05 triệu đồng/doanh nghiệp có sản phẩm đã đăng lên trang thông tin điện tử quốc gia, tổng mức hỗ trợ không quá 05 tỷ đồng,

– Hỗ trợ vận chuyển sản phẩm được quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 14, QĐ 38/2016/QĐ-TTg, theo đó, hỗ trợ sau đầu tư tính theo khoảng cách vận chuyển sản phẩm với mức 1,500 đồng/tấn/km,

  • Chính sách thuế xuất khẩu G&SPG

Chính sách thuế xuất khẩu được quy định tại các Nghị định của Chính phủ như NĐ 57/2019/NĐ-CP, NĐ 57/2020/NĐ-CP, NĐ 111/2020/NĐ-CP, NĐ 53/2021/NĐ-CP quy định về biểu thuế xuất nhập nhẩu, theo đó, các mặt hàng sản phẩm gỗ thuế suất là 0%,

  • Tình hình thực hiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp chế biến G&SPG
    • Sự quan tâm và hưởng thụ các chính sách ưu đãi, hỗ trợ

Hình 32: Biểu đồ về tình hình hưởng thụ các chính sách của doanh nghiệp

 

Hình 32, cho bức tranh về tình hình hưởng thụ các chính sách của doanh nghiệp được khảo sát, có thể thấy:

– Tỉ lệ các doanh nghiệp chưa quan tâm đến các chính sách này, không trả lời dao động từ 26,1% đến 13% đối với các doanh nghiệp xuất khẩu ngoài EU và 4,3% đối với các doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường EU;

– Tỉ lệ các doanh nghiệp được hưởng chính sách dao động từ 17,4% đến 4% đối với các doanh nghiệp xuất khẩu ngoài EU (trong đó chính sách về đất đai được nhiều doanh nghiệp được hưởng thụ nhất, chính sách phát triển thị trường ít nhất với 4,3%); đối với các doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường EU chỉ có 2,2% doanh nghiệp được hưởng chính sách đất đai, các chính sách khác doanh nghiệp chưa được hưởng,

Như vậy, số doanh nghiệp được hưởng thụ các chính sách hiện nay  còn hạn chế, Kết quả khảo sát cho thấy còn nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm đến các chính sách này, Việc doanh nghiệp chưa quan tâm xuất phát từ các nguyên nhân: (1) không biết (2) không có đủ nguồn lực (không có người để nghiên cứu, không có thời gian, …) (3) do các quy định còn bất cập, khó khăn,

  • Những bất cập, khó khăn khi thực hiện các chính sách
  1. Đối với chính sách miễn, giảm tiền sử dụng đất

Hình 33: Những bất cập, khó khăn của việc thực hiện chính sách miễn, giảm tiền sử dụng đất

Trên 30% doanh nghiệp được điều tra đánh giá các quy định để được hưởng thụ chính sách này còn bất cập, khó khăn và chủ yếu là các doanh nghiệp có xuất khẩu sang thị trường EU; trong đó tỉ lệ doanh nghiệp thấy bất cập, khó khăn cao nhất là về hồ sơ, trình tự xin miễn, giảm với 37%, tiếp đến là về điều kiện xin miễn, giảm với 34,8% (Hình 33), Kết quả phỏng vấn trực tiếp 16 doanh nghiệp cho thấy:

– Hiện nay các doanh nghiệp được hưởng thụ chính sách này cũng chỉ là dãn tiền thuê đất do dịch bệnh và thủ tục rất phức tạp, phải giải trình nhiều, doanh nghiệp không có đủ nguồn lực (con người, thời gian, …) để thực hiện, Có doanh nghiệp phản ánh giá thuê đất của công ty trong 3 năm gần đây tăng từ 250 triệu đồng/năm lên 3,3tỷ đồng/năm, trong khi lãi của công ty bình quân 1tỷ đồng/năm (giá thuê đất cao là do đất mà công ty đang thuê của khu công nghiệp nay được quy hoạch thành đất ven đô thị nên giá đất thay đổi)

– Một số doanh nghiệp phản ánh các doanh nghiệp FDI có lợi thế hơn khi được giảm tiền thuê đất do chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Nhà nước, Đây là điểm dẫn tới sự không bình đẳng giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước,

– Các doanh nghiệp chế biến gỗ hiện nay hầu hết ở trong các khu công nghiệp, thuê  của khu công nghiệp nên không được hưởng chính sách này, Việc thuê đất của các doanh nghiệp còn gặp một số khó khăn sau:

+ Nhiều doanh nghiệp chế biến gỗ chưa được ưu tiên thuê ở những nơi thuận lợi cho giao thông, vận chuyển, trong khi đây là yếu tố rất quan trọng giúp doanh nghiệp giảm chi phí, nhất là trong giai đoạn hiện nay vì đặc thù của ngành chế biến gỗ là nguyên liệu và sản phẩm rất cồng kềnh, cần không gian rộng cho dây chuyền sản xuất, bãi gỗ, kho chứa thành phẩm,

+ Đối với các doanh nghiệp lớn muốn đầu tư sản xuất theo chuỗi từ thu mua gỗ tròn đến tiêu thụ sản phẩm thì việc phải thuê đất ở các khu công nghiệp sẽ tạo thêm khó khăn cho doanh nghiệp vì chi phí thuê đất và phí dịch vụ cao,

  1. Đối với chính sách hỗ trợ vay tín dụng

Hình 34: Những bất cập, khó khăn của việc thực hiện chính sách hỗ trợ vay tín dụng

Hình 34 cho thấy những bất cập, khó khăn của việc thực hiện chính sách hỗ trợ vay tín dụng của các doanh nghiệp được khảo sát, Có trên 30% doanh nghiệp đánh giá các quy định về điều kiện để được vay, cơ chế bảo đảm tiền vay và lãi suất cho vay còn bất cập, khó khăn và chủ yếu là các doanh nghiệp có xuất khẩu sang thị trường EU; trong đó tỉ lệ doanh nghiệp thấy bất cập, khó khăn cao nhất là về điều kiện để được vay với 34,8%, Kết quả phỏng vấn trực tiếp tại 16 doanh nghiệp cho thấy: hầu hết các doanh nghiệp phản ảnh mặc dù đã được các ngân hàng thương mại hỗ trợ lãi suất vay nhưng lãi suất vẫn cao và thời hạn ngắn nên chưa phù hợp với ngành chế biến gỗ; thủ tục vay còn rườm rà, phức tạp và qua nhiều khâu/cơ quan để lấy xác nhận; thời gian xử lý hồ sơ vay vốn ưu đãi thường kéo dài, nên việc có vốn vay để đầu tư thường bị trễ so với kế hoạch đầu tư,

  1. Đối với chính sách hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng

Hình 35: Những bất cập, khó khăn của việc thực hiện chính hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng

Trên 30% doanh nghiệp được điều tra đánh giá các quy định về điều kiện để được hỗ trợ; hồ sơ, trình tự xin hỗ trợ còn bất cập, khó khăn và chủ yếu là các doanh nghiệp có xuất khẩu sang thị trường EU; trong đó tỉ lệ doanh nghiệp thấy bất cập, khó khăn cao nhất là về điều kiện để được hỗ trợ với 37% (Hình 35),

Kết quả phỏng vấn trực tiếp 16 doanh nghiệp cho thấy:

– Nhiều doanh nghiệp cho rằng chính sách này chỉ các Ban quản lý KCN được hưởng lợi, các doanh nghiệp chế biến gỗ hiện nay hầu hết ở trong các khu công nghiệp nên không được hưởng chính sách này; đồng thời còn phải trả phí dịch vụ hạ tầng cho khu công nghiệp tương đối cao (có doanh nghiệp lên đến 700 triệu đồng/năm) và không có chính sách ưu đãi hoặc giảm phí,

– Mức thu phí dịch vụ hạ tầng tại các KCN hiện nay chưa phù hợp với các doanh nghiệp chế biến gỗ, Hiện nay việc tính phí theo diện tích và tính chung như các ngành nghề khác (cần diện tích mặt bằng ít hơn, giá trị sản xuất cao hơn …) là chưa phù hợp vì đặc thù của công nghiệp chế biến gỗ là máy móc, nguyên liệu, sản phẩm cồng kềnh, cần diện tích lớn,

  1. Đối với chinh sách hỗ trợ phát triển năng lực sản xuất

Hình 36: Những bất cập, khó khăn của việc thực hiện chính hỗ trợ phát triển năng lực sản xuất

Kết quả điều tra 46 doanh nghiệp về những bất cập, khó khăn của việc thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển năng lực sản xuất cho thấy (Hình 36): 34,8 % doanh nghiệp được điều tra đánh giá các quy định về điều kiện để được hỗ trợ còn bất cập, khó khăn và chủ yếu là các doanh nghiệp có xuất khẩu sang thị trường EU; các quy định khác cũng còn có bất cập nhưng tỉ lệ đều dưới 30%, Kết quả phỏng vấn trực tiếp tại 16 doanh nghiệp cũng cho thấy:

– Hầu hết các doanh nghiệp đều không được hưởng chính sách này; thường các doanh nghiệp tự đào tạo nghề cho công nhân,

– Một số doanh nghiệp cho rằng tác phong làm việc của người lao động, nhất là lao động là đồng bào dân tộc thường chưa chuyên nghiệp, ý thức kỷ luật không cao; đồng thời, chưa thấy rõ trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc tạo nguồn lao động tốt, chuyên nghiệp cho các doanh nghiệp,

  1. Đối với chính sách hỗ trợ phát triển thị trường

Hình 37: Những bất cập, khó khăn của việc thực hiện chính sách phát triển thị trường

Trên 30% doanh nghiệp được điều tra đánh giá các quy định về điều kiện để được hỗ trợ; về hồ sơ, trình tự xin hỗ trợ và mức hỗ trợ còn bất cập, khó khăn và chủ yếu là các doanh nghiệp có xuất khẩu sang thị trường EU; trong đó tỉ lệ doanh nghiệp thấy bất cập, khó khăn cao nhất là về điều kiện để được hỗ trợ với 37%, tiếp đến là hồ sơ, trình tự xin hỗ trợ và mức hỗ trợ đều 30,4% (Hình 37), Kết quả phỏng vấn tại 16 doanh nghiệp cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đều tự lo thị trường đầu ra;  địa phương chưa quan tâm đến việc xúc tiến thương mại đối với các sản phẩm của lâm sản nói chung và gỗ nói riêng,

  1. Đối với việc thực hiện chính sách thuế xuất khẩu

Bảng 13: Tổng hợp kết quả đánh giá thực hiện chính sách thuế xuất khẩu của các mặt hàng G&SPG chủ yếu

 

 

TT

 

Mặt hàng

Phù hợp Chưa phù hợp Không trả lời
Tổng số XK EU XK ngoài EU Tổng số XK EU XK ngoài EU Tổng số XK EU XK ngoài EU
1 Đồ nội thất 15 13 2 5 3 2 26 22 4
2 Đồ ngoại thất 15 14 1 2 1 1 29 23 6
3 Các loại ván 8 8 0 3 2 1 35 28 7
4 Gỗ xẻ 8 8 0 1 0 1 37 30 7
5 Gỗ xây dựng 6 6 0 1 0 1 39 32 7
6 Sản phẩm khác 6 6 0 1 0 1 39 32 7

 

Bảng 13 tổng hợp kết quả đánh giá thực hiện chính sách thuế xuất khẩu của các mặt hàng G&SPG chủ yếu cho thấy hầu hết các doanh nghiệp trả lời đều cho rằng chính sách thuế xuất khẩu đối với các mặt hàng này là phù hợp, Có một vài ý kiến cho rằng chưa phù hợp, tuy nhiên không nói lý do và không có đề xuất cụ thể, Có một tỉ lệ cao các doanh nghiệp không trả lời câu hỏi này, có thể là do đây không phải là vấn có vướng mắc nên doanh nghiệp không quan tâm,

Kết quả phỏng vấn trực tiếp tại 16 doanh nghiệp cho thấy các doanh nghiệp đánh giá thuế xuất khẩu hiện nay là phù hợp; tuy nhiên, để tăng nguồn gỗ từ rừng trồng trong nước phục vụ xuất khẩu có doanh nghiệp đề nghị hạn chế việc xuất khẩu dăm bằng biện pháp tăng thuế xuất khẩu dăm lên từ 20 – 30%,

  • Nhu cầu đổi mới chính sách thúc đẩy các doanh nghiệp từng bước giảm sử dụng gỗ nhập khẩu, tăng sử dụng gỗ rừng trồng trong nước cho chế biến G&SPG xuất khẩu

Kết quả khảo sát thực trạng cho thấy việc các doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu gỗ để làm hàng xuất khẩu phụ thuộc vào yêu cầu của khách hàng và của từng mặt hàng, Hiện nay, nguyên liệu gỗ trong nước phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu, nhất là xuất khẩu vào thị trường EU được sử dụng nhiều, nhất là trong thời gian này khi nguồn cung bị đứt gãy và chi phí vận chuyển tăng cao, Vấn đề nằm ở chỗ phải có nguồn cung nguyên liệu có chất lượng (cả về kích thước, độ cứng, …); đây là vấn đề của việc phải có chính sách để thúc đẩy nguồn cung gỗ nguyên liệu cho sản xuất sản phẩm gỗ nói chung và cho xuất khẩu G&SPG nói riêng          Các điểm nghẽn, khoảng trống cần khắc phục trong các chính sách hiện nay để thúc đẩy doanh nghiệp chế biến từng bước giảm sử dụng gỗ nguyên liệu nhập khẩu, tăng sử dụng gỗ rừng trồng trong nước cho chế biến gỗ và các sản phẩm gỗ:

– Việc tuyên truyền, triển khai các chính sách chưa thực sự đến được các đối tượng được hưởng thụ, cơ bản mới chỉ dừng lại ở các cơ quan thực thi, hiệp hội;

– Một số chính sách chưa thật sự thiết thực đối với các doanh nghiệp, cụ thể như sau:

+ Chưa có sự bình đẳng giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước trong việc thực hiện chính sách về đất đai; chính sách thuê đất còn một số bất cập;

+ Doanh nghiệp chế biến gỗ chưa được quan tâm đến các điều kiện đặc thù khi thực hiện các quy định về thu phí dịch vụ hạ tầng trong khu công nghiệp, …; chưa có quy định để thúc đẩy việc dùng nguyên liệu trong nước;

+ Nguồn nhân lực cho ngành chế biến gỗ còn hạn chế, nhất là về tác phong làm việc chuyên nghiệp,

Hình 38: Đề xuất chính sách để thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu gỗ từ rừng trồng trong nước

Kết quả điều tra được tổng hợp tại Hình 38 cho thấy 5 nhóm chính sách cần đổi mới để có thể thúc đẩy các doanh nghiệp từng bước giảm sử dụng gỗ nhập khẩu, tăng sử dụng gỗ nguyên liệu trong nước để chế biến G&SPG xuất khẩu, Trong đó, cần phải đổi mới chính sách tín dụng để doanh nghiệp phát triển thị trường được 65,2% doanh nghiệp đồng ý, tiếp đến là các chính sách về hỗ trợ phát triển mạng lưới cung ứng gỗ nguyên liệu, phát triển hệ thống thông tin cho doanh nghiệp,

  • Một số phát hiện chính về chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp chế biến G&SPG xuất khẩu

– Do những đặc điểm về sản xuất trong lĩnh vực chế biến G&SPG như không gian sản xuất lớn, dây chuyền sản xuất cồng kềnh, sử dụng nhiều lao động thủ công, nguyên liệu đầu vào số lượng lớn, giá trị gia tăng thấp, thị trường đầu vào và đầu ra khá phức tạp, ngoài trừ chính sách ưu đãi về thuế xuất khẩu, các chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp hiện nay ít phù hợp, nhất là chính sách về đất đai, chính sách tín dụng, Điều này cần phải được nghiên cứu, xem xét tính đặc thù về sản xuất G&SPG để ban hành những quy định đặc thù riêng cho các doanh nghiệp chế biến G&SPG,

– Chính sách các KCN chưa phù hợp với đặc điểm sản xuất các cơ sở chế biến G&SPG, như làm tăng chi phí gỗ nguyên liệu do thông qua nhiều lớp của mạng lưới cung ứng gỗ nguyên liệu (cơ sở khai thác, sơ chế, sấy); chi phí thuê đất, thuê hạ tầng cao, không được hưởng thụ trực tiếp chính sách phát triển hạ tầng, giá thuê đất … Cơ sở chế biến G&SPG trong các KCN vô hình dung tạo nên 2 vấn đề: một là, doanh nghiệp tự co vào một công đoạn sản xuất là chế biến trong chuỗi giá trị; hai là, thiếu hoặc rất khó khăn trong liên kết dọc cho cung ứng nguyên liệu, Đây là vấn đề cần được nghiên cứu để các địa phương tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chế biến G&PG đứng chân tại nơi sản xuất phù hợp, qua đó khuyến khích sử dụng gỗ nguyên liệu trong nước,

– Việc tiếp cận chính sách còn nhiều khó khăn bởi tính phức tạp, chồng chéo, chưa thiết thực với doanh nghiệp chế biến G&SPG, đôi lúc còn có thể gặp rủi ro do khai báo để tiếp cận chính sách; do thủ tục chưa rõ ràng hoặc phức tạp nhất là chính sách về hỗ trợ vốn hoặc các gói hỗ trợ của Chính phủ nên các doanh nghiệp ít quan tâm đến các chính sách ưu đãi và hỗ trợ,

– Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách còn nhiều hạn chế, Hầu hết các doanh nghiệp được khảo sát đều chưa nắm được, thậm chí chưa biết có các chính sách này,

5.  Đề xuất giải pháp và khuyến nghị chính sách

  • Giải pháp đối với gỗ nguyên liệu cho chế biến G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU
    • Nhóm giải pháp quản lý có hiệu quả nguồn nguyên liệu

– Để chủ động nguồn nguyên liệu phục vụ các nhà máy chế biến và hướng tới xây dựng nguồn nguyên liệu gỗ bền vững phục vụ xuất khẩu, cần có quy hoạch tạo vùng nguyên liệu tập trung, đủ lớn, gắn với quy hoạch các cơ sở chế biến, thị trường tiêu thụ,

– Liên kết chuỗi, đặc biệt liên kết giữa doanh nghiệp chế biến gỗ và hộ trồng rừng, giữa doanh nghiệp chế biến và công ty lâm nghiệp, giữa doanh nghiệp chế biến và doanh nghiệp nước ngoài theo hình thức đầu tư chất lượng cao, theo chuỗi sản xuất có tiềm năng trong việc tạo các bước phát triển đột phá trong ngành chế biến nói riêng và ngành lâm nghiệp nói chung,

  • Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng nguyên liệu trong nước

– Nguồn gỗ rừng trồng chính là giải pháp góp phần giúp ngành sản xuất, chế biến gỗ và lâm sản Việt Nam tiếp tục phát triển, mặc dù gỗ nguyên liệu trong nước đáp ứng gần 80% nhu cầu sản xuất, chế biến, song gần 70% là gỗ có kích thước nhỏ, chỉ sản xuất các sản phẩm như dăm gỗ, các loại ván nhân tạo, Bài toán cấp thiết đặt ra là làm thế nào để có được nguồn gỗ nguyên liệu trong nước là gỗ lớn, có chất lượng, đa dạng về chủng loại là vấn đề được các doanh nghiệp quan tâm đề xuất,

– Đưa ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nguyên liệu từ chọn, tạo giống, kiểm soát đến đảm bảo chất lượng giống cho rừng, cải tiến biện pháp kỹ thuật thâm canh rừng nhằm tăng năng suất và chất lượng rừng trồng, đáp ứng được các yêu cầu về công nghệ chế biến gỗ và thị hiếu của người tiêu dùng,

– Đẩy mạnh phát triển gỗ có chứng chỉ quản lý rừng bền vững

– Cần có chiến lược phát triển nguồn gỗ nguyên liệu rừng trồng, Chiến lược bao gồm việc đa dạng hóa các loài gỗ rừng trồng trong tương lai nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng về các loài sử dụng trong chế biến, Ngoài cây keo và cây cao su, mỡ, bồ đề đang cung cấp nguồn nguyên liệu cho ngành chế biến, cần nghiên cứu bổ sung thêm một số loại cây mới đáp ứng nhu cầu của thị trường như cây xoan đào, keo hoa vàng, cây teak, …

– Cần tập trung vào tạo môi trường thu hút doanh nghiệp chế biến vào đầu tư tại các vùng nguyên liệu rừng trồng, Liên kết giữa doanh nghiệp và các hộ trồng rừng nhằm tạo nguồn gỗ lớn có chất lượng cao có tiềm năng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất của các hộ, Cần tuyên truyền để người dân hiểu ý nghĩa và giá trị kinh tế từ việc trồng rừng gỗ lớn,

– Đầu tư, phát triển mô hình sơ chế chuyên sâu, chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng nguyên liệu sơ chế

  • Nhóm giải pháp cải tiến kỹ thuật, trình độ sản xuất

– Cần đổi mới công nghệ cũ, lạc hậu bằng công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường, tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu và năng lượng; xây dựng các cụm xẻ sơ chế tập trung quy mô lớn ở những vùng trồng tập trung; tiến hành xây dựng các trung tâm giao dịch gỗ tại 3 miền Bắc, Trung, Nam,

– Hỗ trợ doanh nghiệp chế biến gỗ liên kết, hợp tác với các viện nghiên cứu, trường đại học, trường nghề triển khai ứng dụng khoa học, công nghệ, đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ; hỗ trợ đào tạo, tập huấn về công nghệ, tay nghề cho cán bộ kỹ thuật, công nhân,

  • Khuyến nghị định hướng chính sách ưu đãi, hỗ trợ chế biến G&SPG
    • Đối với các chính sách liên quan đến tiền sử dụng đất

– Cần bảo đảm sự bình đẳng giữa doanh nghiệp chế biến gỗ trong nước với các doanh nghiệp FDI;

– Cần xác định giá thuê đất của doanh nghiệp để sản xuất đồ gỗ không thể cao như giá thuê đất của các doanh nghiệp chỉ làm dịch vụ;

– Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chế biến gỗ thuê đất ngoài khu công nghiệp để sản xuất theo chuỗi từ sơ chế đến sản xuất, tiêu thụ G&SPG, Đồng thời, tạo điều kiện để các doanh nghiệp chế biến gỗ được thuê đất ở những chỗ thuận lợi về giao thông, hạ tầng;

– Cần có những điều chỉnh về chính sách miễn, giảm tiền sử dụng đất để các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa được hưởng vì theo quy định của chính sách miễn, giảm tiền sử dụng đất tại Nghị định 57/2018/NĐ-CP thì những doanh nghiệp thuộc các khu công nghiệp, những doanh nghiệp đã thuê đất từ trước khi có các chính sách này sẽ không được hưởng, Trong khi, ở các tỉnh miền Trung và miền Nam rất nhiều doanh nghiệp nằm trong các trường hợp này (rất nhiều doanh nghiệp nằm trong khu công nghiệp, đã hoạt động được một thời gian) và hiện nay cũng gặp khó khăn, cần được quan tâm để có thể tiếp tục hoạt động,

  • Đối với các chính sách về hạ tầng, tín dụng và thị trường

– Nghiên cứu thay đổi cách tính phí dịch vụ hạ tầng tại các KCN, Hiện nay việc tính phí theo diện tích chung cho các ngành nghề như nhau là chưa phù hợp vì đặc thù của công nghiệp chế biến gỗ là máy móc, nguyên liệu, sản phẩm cồng kềnh, cần diện tích lớn,

          – Tạo điều kiện để các doanh nghiệp được giảm lãi suất cho vay khi dùng nguyên liệu trong nước để sản xuất G&SPG xuất khẩu; hỗ trợ tín dụng để doanh nghiệp sản xuất sản phẩm mới từ nguyên liệu trong nước phục vụ cho xuất khẩu;

– Tạo điều kiện để các doanh nghiệp xuất khẩu G&SPG được giảm chi phí lưu kho do tác động của dịch bệnh hoặc do thiên tai;

– Hỗ trợ để xây dựng các chợ/trung tâm/sàn giao dịch nguyên liệu gỗ rừng trồng, chuyển từ việc “bán cái gì có” sang “bán cái gì thị trường cần”;

– Các địa phương cần phối hợp chặt chẽ với Hiệp hội gỗ để thúc đẩy việc xúc tiến thương mại các sản phẩm gỗ,

  • Đối với chính sách về phát triển năng lực sản xuất

Các địa phương cần quan tâm đến việc đào tạo về phong cách và tác phong làm việc công nghiệp cho lao động ở địa phương để cung cấp nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp thay vì đào tạo nghề cụ thể như hiện nay,

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHẦN IV: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1.    Kết luận

Nghiên cứu nhu cầu gỗ nguyên liệu cho chế biến G&SPG khẩu sang thị trường EU trong bối cảnh thực hiện Hiệp định EVFTA và thực thi cam kết VPA đã bám sát mục tiêu, đối tượng, thực hiện các nội dung bằng phương pháp nghiên cứu phù hợp đã cơ bản thực hiện được các mục tiêu đặt ra, đó là:

– Thứ nhất, phân tích tình hình sử dụng gỗ nguyên liệu giai đoạn 2018-2021 và dự báo nhu cầu gỗ nguyên liệu cho chế biến G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU trong giai đoạn 2022-2030, Để đạt mục tiêu này nghiên cứu đã:

+ Tổng quan được về chế biến G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU trên phạm vi cả nước và từ thực tế tại các doanh nghiệp nghiên cứu, từ đó rút ra được các phát hiện chính về đặc điểm thị trường EU, các doanh nghiệp với mặt hàng chủ yếu xuất khẩu sang thị trường này, Đây chính là phân tích nguồn cầu về nguyên liệu gỗ cho chế biến G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU;

+ Phân tích rõ tình hình sử dụng nguyên liệu gỗ nguyên nhập khẩu; nguyên liệu gỗ trong nước (gỗ tròn, gỗ xẻ, ván) về số lượng, diễn biến, loại gỗ nhập, đánh giá những lợi thế của mỗi loại nguồn … từ đó cho những phát hiện chính về gỗ nguyên nhập khẩu và gỗ nguyên liệu trong nước, Đây chính là phân tích nguồn cung về gỗ nguyên liệu cho chế biến G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU;

+ Nghiên cứu đã dự báo được nhu cầu gỗ nguyên liệu cho chế biến G&SPG xuất khẩu sang các thị trường và thị trường EU trong giai đoạn 2022-2030;

+ Đã đề xuất được các giải pháp về các mặt quản lý, nâng cao chất lươngj nguyên liệu trong nước, cải tiến kỹ thuật và tổ chức sản xuất,

– Thứ hai, phân tích tình hình thực hiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp và đề xuất định hướng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp chế biến từng bước giảm gỗ nhập khẩu, tăng sử dụng gỗ rừng trồng trong nước để chế biến xuất khẩu G&SPG sang thị trường EU, Để đạt mục tiêu này nghiên cứu đã:

– Hệ thống hóa các chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp về đất đai, tín dụng, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển năng lực sản xuất, phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm, thuế xuất nhập khẩu;

– Phân tích tình hình thực hiện các chính sách trên trong giai đoạn vừa qua, những khó khăn bất cập, nhu cầu đổi mới chính sách, từ đó đã phát hiện ra 4 vần đề quan trọng, đó là sự chưa phù hợp của chính sách hiện hành; chính sách về KCN đối với doanh nghiệp chế biến G&SPG; những vấn đề về tiếp cận chính sách và tuyên truyền, giáo dục chính sách;

– Khuyến nghị định hướng chính sách tập trung vào tiền sử dụng đất; hạ tầng, tín dụng và thị trường; phát triển năng lực sản xuất để doanh nghiệp từng bước giảm sử dụng nguyên nghiệu nhập khẩu, tăng sử dụng gỗ nguyên liệu trong nước cho chế biến G&SPG xuất khấu,

2.    Kiến nghị

Do nghiên cứu dừng ở phạm vi doanh nghiệp chế biến G&SPG xuất khẩu sang thị trường EU, Đây chính là nguồn cầu đối với chuỗi giá trị cung ứng gỗ nguyên liệu, do đó các nghiên cứu liên quan đến trồng rừng, cung ứng gỗ rừng trồng trong nước cho chế biến G&SPG xuất khẩu chưa được nghiên cứu, Nhóm nghiên cứu kiến nghị năm 2023 sẽ tiếp tục nghiên cứu liên quan đến rừng trồng và cơ chế chính sách để đáp ứng nhu cầu gỗ nguyên liệu trong nghiên cứu này,

————————————————

 

 

 

 

 

 

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bộ NN và PTNT, 2019, Báo cáo của Bộ NN và PTNT về: “Ngành công nghiệp chế biến, xuất khẩu gỗ, lâm sản năm 2018- thành công, bài học kinh nghiệm; giải pháp bứt phá năm 2019” tại Diễn đàn Ngành công nghiệp chế biến, xuất khẩu gỗ, lâm sản năm 2019 – Thành công, bài học kinh nghiệm; giải pháp bứt phá năm 2019, Hà Nội, ngày 22 tháng 2 năm 2019,
  2. Bộ NN&PTNT, 2014, Quyết định số 774/QĐ-BNN-TCLN ngày 18/4/2014 của Bộ NN&PTNT về Kế hoạch hành động nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị rừng trồng sản xuất giai đoạn 2014 – 2020,
  3. Bộ NN&PTNT, 2020, Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, trg 135,
  4. Chính phủ 2019, 2020, 2021, Các nghị định của Chính phủ: 57/2019/NĐ-CP về , 57/2020/NĐ-CP, NĐ 111/2020/NĐ-CP và NĐ 53/2021/NĐ-CP quy định về biểu thuế xuất nhập khẩu,
  5. Chính phủ, 2015, Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; được sửa đổi, bổ sung bởi NĐ 116/2018/NĐ-CP ngày 7/9/2018,
  6. Chính phủ, 2018, Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày 7/9/2018 của Chính phủ về việc sửa đổi bổ sung một số điều NĐ 55/2015/NĐ-CP,
  7. Chính phủ, 2018, Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 của Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích công ty đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn,
  8. Chính phủ, 2018, Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 5/7/2018 của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp,
  9. Hội chủ rừng Việt Nam- SRD, 2021, Nghiên cứu nhu cầu gỗ rừng trồng cho chế biến, xuất khẩu đáp ứng yêu cầu Hiệp định EVFTA và thực thi cam kết VPA ở Việt Nam, Báo cáo tư vấn tháng 8 năm 2021,
  10. Hội chủ rừng Việt Nam, 2018, Nghiên cứu thị trường gỗ nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu gỗ và lâm sản ở Việt Nam,Actionaid, Đại sứ quán Phần lan – 2018,
  11. Mạng lưới các tổ chức Phi chính phủ Việt Nam về Thực thi Lâm luật, Quản trị rừng và Thương mại Lâm sản (VNGO-FLEGT), 2015, Nghiên cứu đánh giá khả năng đáp ứng tiêu chuẩn gỗ hợp pháp cấp hộ gia đình tại tỉnh Nghệ An,
  12. Nguyễn Bá Ngãi và Nguyễn Quốc Trị, 2020, Lâm nghiệp Việt Nam: 75 năm hình thành và phát triển (1945-2020), Nhà xuất bản Nông nghiệp – 2020,
  13. Tạp chí Gỗ Việt, 2020, Tình hình nhập khẩu G&SPG của Việt Nam năm 2020, Gỗ Việt số 130, tháng 1/2021, https://goviet,org,vn/bai-viet/tinh-hinh-xuat-nhap-khau-go-va-san-pham-go-cua-viet-nam-nam-2020-9252,
  14. Tạp chí gỗ Việt, 2020, Việt nam xuất nhập khẩu G&SPG năm 2021, Tạp chí Gỗ Việt, https://goviet,org,vn/bai-viet/bao-cao-viet-nam-xuat-nhap-khau-go-va-san-pham-nam-2021-9632
  15. Tạp chí Gỗ Việt, 2020, Việt Nam xuất nhập khẩu G&SPG, thực trạng năm 2020 và xu hướng năm 2021, Tạp chí Gỗ Việt, https://goviet,org,vn/bai-viet/bao-cao-viet-nam-xuat-nhap-khau-go-va-san-pham-go-thuc-trang-2019-va-xu-huong-2020-9099
  16. Tạp chí Gỗ Việt, 2020, Việt Nam xuất nhập khẩu G&SPG, thực trạng năm 2019 và xu hướng năm 2020
  17. Tô Xuân Phúc, Cao Thị Cẩm và Trần Huy Lê, 2019, Việt Nam xuất khẩu G&SPG – Thực trạng 2019 và xu hướng năm 2020, Báo cáo được Cơ quan Hợp tác Phát triển của Chính phủ Anh (DFID) và Chính phủ Na Uy (NORAD) tài trợ, Tháng 2 năm 2020,
  18. Thủ tướng Chính phủ, 2016, Quyết định số 38/2016/QĐ-TTg ngày 14/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách bảo vệ, phát triển rừng và đầu tư hỗ trợ kết cấu hạ tầng, giao nhiệm vụ công ích đối với các công ty nông lâm nghiệp, (Điều 14 hỗ trợ chế biến gỗ rừng trồng đặc thù cho các tỉnh nghèo)
  19. Thủ tướng Chính Phủ, 2022, Quyết định 327/QĐ-TTg ngày 10/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ bền vững, hiệu quả giai đoạn 2021 – 2030,
  20. Trung tâm phát triển Nông thôn bền vững, 2020, Hiện trạng về hộ trồng rừng và doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ sản xuất gỗ trước khi thực thi VPA-FLEGT
  21. Trung tâm WTO,VCCI, 2016, Báo cáo nghiên cứu chính sách ngành chế biến gỗ xuất khẩu, phân tích rủi ro chính của ngành chế biến gỗ xuất khẩu

 

 

 

 

 

 

PHẦN PHỤ LỤC

(Bản mềm kèm theo báo cáo chính)

Phục lục 01: PHIẾU PHỎNG VẤN NHU CẦU GỖ NGUYÊN LIỆU CHO CHẾ BIẾN G&SPG XUẤT KHẨU (dùng để gửi tới 130  Công ty chế biến lâm sản)

Phụ lục 02: BẢNG PHỎNG VẤN BÁN ĐỊNH HƯỚNG (dùng cho phỏng vấn tại 16 Công ty chế biến lâm sản)

Phụ lục 03: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH SỐ LIỆU

Phụ lục 04:     DANG SÁCH 46 DOANH NGHIỆP TRẢ LỜI PHIẾU PHỎNG VẤN (để lưu không công bố do cam kết với công ty)

Phụ lục 05: DANH SÁCH 16 DOANH NGHIỆP PHỎNG VẤN SÂU (để lưu không công bố do cam kết với công ty)

 

———————————-

 

[1] Mã HS 94 của Việt Nam gồm đối với đồ nội thất; bộ đồ giường, đệm, khung đệm, nệm và các đồ dùng nhồi tương tự; đèn và bộ đèn, chưa được chi tiết hoặc ghi ở nơi khác; biển hiệu được chiếu sáng, biển đề tên được chiếu sáng và các loại tương tự; nhà lắp ghép được đánh mã từ HS 9401 đến HS 9406

6 Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới giữa Việt Nam và các nước thành viên thuộc khối Liên minh châu Âu

[3] Đã gửi tới 130 công ty chế biến G&SPG xuất khẩu và đã nhận được 46 phiếu trả lời từ 46 công ty (tỷ lệ trả lời: 35.38%)

 

[4] Số liệu xuất khẩu sang thị trường EU năm 2020, 2021 không bao gồm nước Anh (EU27), trong khi các năm trước đó là EU28 (bao gồm Anh)

[5] Thủ tướng Chính Phủ, 2022. Quyết định 327/QĐ-TTg ngày 10/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ bền vững, hiệu quả giai đoạn 2021 – 2030,

[6] [6] Bộ NN&PTNT, 2020. Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050